Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関  

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 11: Triệu Châu thử sức am chủ (Châu khám am chủ)[1].

州勘庵主

Bản tắc:

Hòa thượng Triệu Châu đến thăm một vị am chủ[2], hỏi:

- Sao, có gì không?[3]

Am chủ bèn đưa nắm tay lên[4]. Triệu Châu mới nói:

- Nước cạn, không phải là chỗ để đậu thuyền.

Xong, bỏ ra ngoài.

Thế rồi ông lại đến thăm một vị am chủ khác, hỏi:

- Sao, có gì không?

Vị am chủ này cũng đưa nắm tay lên. Lúc đó, Triệu Châu bèn nói:

-Thả, bắt đều được. Mặc lòng cho sống hoặc giết chết[5].Nhân vật đáng nể!

Bèn cúi lễ.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Hai người cùng đưa nắm tay lên, cớ sao đối với một bên thì Triệu Châu khen ngợi, một bên lại chê bai như vậy. Nói thử nghe coi! Để biết sự thăm dò của Triệu Châu ảo diệu đến mức nào. Lúc ấy, nếu biết thốt ra câu nào có giá trị chuyển mê khai ngộ thực sự, sẽ thấy Triệu Châu chỉ được mỗi tấc lưỡi không xương! Bởi vì muốn giúp đỡ nâng lên (khẳng định) ai hay loại bỏ lật nhào (phủ định) ai, ông ta đều có thể tùy tiện.

Dù Triệu Châu muốn đánh giá họ thế nào, hai vị am chủ đều đọc được ý đồ (tâm cảnh) của ông ấy! Vì vậy, nếu người tu học nào còn thấy giữa hai vị am chủ kia có kẻ hơn người kém là anh ta chưa có cái nhãn lực của thiền. Còn như cho rằng hai bên cũng giống y nhau thì phải nói anh ta cũng chưa có nhãn lực nốt.

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Nhãn lưu tinh,
Cơ xế
[6] điện.
Sát nhân đao,
Hoạt nhân kiếm.

眼 流 星 
機 掣 電 
殺 人 刀
活 人 劍

(Mắt sáng tựa sao băng,
Tâm cơ như ánh chớp.
Đem con dao đoạt mạng,
Làm lưỡi kiếm cứu người).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Các am chủ là những người đã rời thế tục, vứt bỏ danh lợi, sống ẩn dật trong một cái am con, vui với sự tu hành. “Hữu ma, hữu ma?”, ý hỏi tâm cảnh giác ngộ của anh ra sao, có thì cho tôi xem với! Tuy nhiên, có thuyết cho rằng “Hữu” hay “Tồn Tại” còn có nghĩa là “Cư” nghĩa là “Có Mặt”. Nhưng thôi, bỏ qua khía cạnh ngữ học, xem thử công án này muốn nói gì.

Trước câu hỏi của Triệu Châu, am chủ đầu tiên không nói không rằng, chỉ đưa nắm tay lên.Thiền sư mới bảo: “Bến của anh nước nông quá, con thuyền cỡ lớn của tôi không đỗ được” và bỏ đi mất. Đến phiên ông am chủ thứ hai, có lẽ là cái “mốt” đương thời, cũng im ỉm chỉ đưa nắm tay lên và lần này, lại được Triệu Châu khâm phục như một đại thiền sư.

Nếu qua công án này mà chỉ hiểu nội dung nó muốn nói “Một cử chỉ như đưa nắm tay lên, tùy theo tâm cảnh, nhân cách của người nhìn nó, có thể hoặc đuợc nhìn nhận hoặc bị phủ nhận”, là đã rơi vào trong vòng lý luận thông thường của thế gian. Công án này tương tự Tắc 26 về chuyện hai tăng sĩ cùng cuốn rèm mà ông thầy của họ lại cho rằng giữa hai ông có một được, một mất. Nói như thế, không có nghĩa phải xem tương đậu nành nhuyễn (miso) và phẩn không cái nào hơn cái nào. Trong chỗ rối beng, khó thể phân biệt này, vấn đề là làm sao nhìn ra tâm điểm của công án ? Muốn như vậy phải hiểu được triệt để cách khu xử của Triệu Châu, người đã thong dong trong sự xét đoán, khẳng định hoặc phủ định theo ý mình.

Người xưa có câu:

Nhất thụ xuân phong hữu lưỡng bàn,
Nam chi hướng noãn bắc chi hàn.

壱 樹 春 風 有 両 般

南 枝 向 暖 北 枝 寒

(Một cây đón gió có hai vùng,
Nam ấm dương xuân, bắc lạnh lùng)

Trên mặt ngôn ngữ, việc “nhìn nhận một người và phủ nhận một người” giống như chuyện về một loại cây, lúc mọc trên bãi Naniwa thì người ta gọi là ashi (vi lô), trên bến Ise thì gọi là ogi (địch). Tuy tên khác nhau là vì chỗ mọc khác nhau, chứ chúng cũng chỉ là một vật (lau lách). Phải hiểu một cách thấu suốt như vậy.

Tóm lại, đừng chấp nhất vào sự nhìn nhận hay phủ nhận bên ngoài. Nếu chưa hiểu nguồn gốc hành động tự do của Triệu Châu thì chưa thấm nhuần ý nghĩa công án. Cái cành hướng về phương nam nơi ấm áp (khẳng định) và cái cành hướng về phía bắc phải chịu lạnh lùng (phủ định) đều là bộ phận của một thân cây tên gọi Triệu Châu, vì cái “máy động” [7]trước trận gió xuân mà trở thành khác nhau thôi.

Cái “máy động” ấy hiện ra từ đáy đại tự tại của người học thiền, khi khẳng định thì triệt để khẳng định (hoạt nhân kiếm), khi phủ nhận thì triệt để phủ định (sát nhân đao).

Bả định tắc chân kim thất sắc,
Phóng hành tắc ngõa lịch phóng quang.

把 定 則 真 金 失 色

放 行 則 瓦 礫 放 光

(Giữ chịt, vàng mười phai hết sắc,
Phóng tay, gạch ngói rạng màu tươi).

Trong đoạn cuối, có nói đến việc Triệu Châu bị hai vị am chủ biết tỏng ông đang thử họ. Bằng chứng là dù được khen hay bị chê, họ đều “không còn chấp ngã” (bất quan ngã yên) khi đưa nắm tay lên để nói “trời đất hợp nhất” thành một tuyệt đối (tuyệt đối quyền đầu)[8]. Điều ấy làm cho Triệu Châu không biết xử sự ra sao. “Bình thản như con quạ trên cành liễu”, hai vị am chủ đã thấy trước màn kịch độc diễn lúc khẳng định lúc phủ định của Triệu Châu rồi. Hòa Thượng Vô Môn như thế đã đứng ở vị trí hai vị am chủ để đặt điều bỡn ông.


 


[1] Thoại này có chép trong Triệu Châu Lục nhưng ở chỗ “am chủ” lại viết “tôn túc” và thay vì “năng sát năng hoạt” lại là “năng thủ năng toát”.

[2] Kẻ đã giác ngộ nhưng không ở trong điện đường già lam để tiếp hóa kẻ khác mà sống ẩn cư ngoài am. Trong chốn tùng lâm Trung Quốc, có các Đông Am Chủ, Tây Am Chủ rất nổi tiếng.

[3] Nguyên văn “Hữu ma, hữu ma!” là một câu hỏi rất đáng sợ: Có không, có không? Có ở đấy không? (Tại ma, tại ma!) Có gì trong đó? Trong am có thiền chăng? Có thức tỉnh chăng? Dùng chữ “ma” là hỏi một cách xẳng xớm.

[4] Cho thấy thiền cảnh của mình.

[5] Đây ám chỉ tâm cơ của người tu thiền.

[6] Xế: lôi kéo, bắt.

[7] Máy động. Hataraki trong tiếng Nhật, một từ rất phong phú. Anh Mỹ dịch bằng 3 chữ: function (cơ năng), operation (thao tác) và working (tác dụng).

[8] Không khác gì nhất chỉ thiền của Thiên Long và Câu Chi (LND).

 

 

 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関  

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 11: Triệu Châu thử sức am chủ (Châu khám am chủ)[1].

州勘庵主

Bản tắc:

Hòa thượng Triệu Châu đến thăm một vị am chủ[2], hỏi:

- Sao, có gì không?[3]

Am chủ bèn đưa nắm tay lên[4]. Triệu Châu mới nói:

- Nước cạn, không phải là chỗ để đậu thuyền.

Xong, bỏ ra ngoài.

Thế rồi ông lại đến thăm một vị am chủ khác, hỏi:

- Sao, có gì không?

Vị am chủ này cũng đưa nắm tay lên. Lúc đó, Triệu Châu bèn nói:

-Thả, bắt đều được. Mặc lòng cho sống hoặc giết chết[5].Nhân vật đáng nể!

Bèn cúi lễ.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Hai người cùng đưa nắm tay lên, cớ sao đối với một bên thì Triệu Châu khen ngợi, một bên lại chê bai như vậy. Nói thử nghe coi! Để biết sự thăm dò của Triệu Châu ảo diệu đến mức nào. Lúc ấy, nếu biết thốt ra câu nào có giá trị chuyển mê khai ngộ thực sự, sẽ thấy Triệu Châu chỉ được mỗi tấc lưỡi không xương! Bởi vì muốn giúp đỡ nâng lên (khẳng định) ai hay loại bỏ lật nhào (phủ định) ai, ông ta đều có thể tùy tiện.

Dù Triệu Châu muốn đánh giá họ thế nào, hai vị am chủ đều đọc được ý đồ (tâm cảnh) của ông ấy! Vì vậy, nếu người tu học nào còn thấy giữa hai vị am chủ kia có kẻ hơn người kém là anh ta chưa có cái nhãn lực của thiền. Còn như cho rằng hai bên cũng giống y nhau thì phải nói anh ta cũng chưa có nhãn lực nốt.

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Nhãn lưu tinh,
Cơ xế
[6] điện.
Sát nhân đao,
Hoạt nhân kiếm.

眼 流 星 
機 掣 電 
殺 人 刀
活 人 劍

(Mắt sáng tựa sao băng,
Tâm cơ như ánh chớp.
Đem con dao đoạt mạng,
Làm lưỡi kiếm cứu người).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Các am chủ là những người đã rời thế tục, vứt bỏ danh lợi, sống ẩn dật trong một cái am con, vui với sự tu hành. “Hữu ma, hữu ma?”, ý hỏi tâm cảnh giác ngộ của anh ra sao, có thì cho tôi xem với! Tuy nhiên, có thuyết cho rằng “Hữu” hay “Tồn Tại” còn có nghĩa là “Cư” nghĩa là “Có Mặt”. Nhưng thôi, bỏ qua khía cạnh ngữ học, xem thử công án này muốn nói gì.

Trước câu hỏi của Triệu Châu, am chủ đầu tiên không nói không rằng, chỉ đưa nắm tay lên.Thiền sư mới bảo: “Bến của anh nước nông quá, con thuyền cỡ lớn của tôi không đỗ được” và bỏ đi mất. Đến phiên ông am chủ thứ hai, có lẽ là cái “mốt” đương thời, cũng im ỉm chỉ đưa nắm tay lên và lần này, lại được Triệu Châu khâm phục như một đại thiền sư.

Nếu qua công án này mà chỉ hiểu nội dung nó muốn nói “Một cử chỉ như đưa nắm tay lên, tùy theo tâm cảnh, nhân cách của người nhìn nó, có thể hoặc đuợc nhìn nhận hoặc bị phủ nhận”, là đã rơi vào trong vòng lý luận thông thường của thế gian. Công án này tương tự Tắc 26 về chuyện hai tăng sĩ cùng cuốn rèm mà ông thầy của họ lại cho rằng giữa hai ông có một được, một mất. Nói như thế, không có nghĩa phải xem tương đậu nành nhuyễn (miso) và phẩn không cái nào hơn cái nào. Trong chỗ rối beng, khó thể phân biệt này, vấn đề là làm sao nhìn ra tâm điểm của công án ? Muốn như vậy phải hiểu được triệt để cách khu xử của Triệu Châu, người đã thong dong trong sự xét đoán, khẳng định hoặc phủ định theo ý mình.

Người xưa có câu:

Nhất thụ xuân phong hữu lưỡng bàn,
Nam chi hướng noãn bắc chi hàn.

壱 樹 春 風 有 両 般

南 枝 向 暖 北 枝 寒

(Một cây đón gió có hai vùng,
Nam ấm dương xuân, bắc lạnh lùng)

Trên mặt ngôn ngữ, việc “nhìn nhận một người và phủ nhận một người” giống như chuyện về một loại cây, lúc mọc trên bãi Naniwa thì người ta gọi là ashi (vi lô), trên bến Ise thì gọi là ogi (địch). Tuy tên khác nhau là vì chỗ mọc khác nhau, chứ chúng cũng chỉ là một vật (lau lách). Phải hiểu một cách thấu suốt như vậy.

Tóm lại, đừng chấp nhất vào sự nhìn nhận hay phủ nhận bên ngoài. Nếu chưa hiểu nguồn gốc hành động tự do của Triệu Châu thì chưa thấm nhuần ý nghĩa công án. Cái cành hướng về phương nam nơi ấm áp (khẳng định) và cái cành hướng về phía bắc phải chịu lạnh lùng (phủ định) đều là bộ phận của một thân cây tên gọi Triệu Châu, vì cái “máy động” [7]trước trận gió xuân mà trở thành khác nhau thôi.

Cái “máy động” ấy hiện ra từ đáy đại tự tại của người học thiền, khi khẳng định thì triệt để khẳng định (hoạt nhân kiếm), khi phủ nhận thì triệt để phủ định (sát nhân đao).

Bả định tắc chân kim thất sắc,
Phóng hành tắc ngõa lịch phóng quang.

把 定 則 真 金 失 色

放 行 則 瓦 礫 放 光

(Giữ chịt, vàng mười phai hết sắc,
Phóng tay, gạch ngói rạng màu tươi).

Trong đoạn cuối, có nói đến việc Triệu Châu bị hai vị am chủ biết tỏng ông đang thử họ. Bằng chứng là dù được khen hay bị chê, họ đều “không còn chấp ngã” (bất quan ngã yên) khi đưa nắm tay lên để nói “trời đất hợp nhất” thành một tuyệt đối (tuyệt đối quyền đầu)[8]. Điều ấy làm cho Triệu Châu không biết xử sự ra sao. “Bình thản như con quạ trên cành liễu”, hai vị am chủ đã thấy trước màn kịch độc diễn lúc khẳng định lúc phủ định của Triệu Châu rồi. Hòa Thượng Vô Môn như thế đã đứng ở vị trí hai vị am chủ để đặt điều bỡn ông.


 


[1] Thoại này có chép trong Triệu Châu Lục nhưng ở chỗ “am chủ” lại viết “tôn túc” và thay vì “năng sát năng hoạt” lại là “năng thủ năng toát”.

[2] Kẻ đã giác ngộ nhưng không ở trong điện đường già lam để tiếp hóa kẻ khác mà sống ẩn cư ngoài am. Trong chốn tùng lâm Trung Quốc, có các Đông Am Chủ, Tây Am Chủ rất nổi tiếng.

[3] Nguyên văn “Hữu ma, hữu ma!” là một câu hỏi rất đáng sợ: Có không, có không? Có ở đấy không? (Tại ma, tại ma!) Có gì trong đó? Trong am có thiền chăng? Có thức tỉnh chăng? Dùng chữ “ma” là hỏi một cách xẳng xớm.

[4] Cho thấy thiền cảnh của mình.

[5] Đây ám chỉ tâm cơ của người tu thiền.

[6] Xế: lôi kéo, bắt.

[7] Máy động. Hataraki trong tiếng Nhật, một từ rất phong phú. Anh Mỹ dịch bằng 3 chữ: function (cơ năng), operation (thao tác) và working (tác dụng).

[8] Không khác gì nhất chỉ thiền của Thiên Long và Câu Chi (LND).

 

 

 

Trở về