Tắc
số 10:
Sư
Thanh Thoát nghèo khó (Thanh Thoát
cô bần)[1].
清税孤貧
Bản tắc:
Hòa thượng Tào
Sơn[2]
nhân có một tăng
sĩ hỏi:
-Thanh Thoát [3]tôi
nghèo khó cô đơn. Dám xin
đại sư có gì chẩn tế
cho.
Tào Sơn bèn gọi:
-Nầy thầy Thanh Thoát![4]
Thoát bèn thưa:
-Vâng!
Tào Sơn lúc đó
mới bảo:
-Rượu ngon Thanh Nguyên[5]
của họ Bạch, đã
uống cạn ba bát lớn rồi mà
thầy vẫn chưa thấy môi mình
ướt hay sao![6]
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Thanh Thoát thoạt nhìn ra
vẻ nghiêm trang nhưng đang vụng về
mánh mung thử thách chi đây.
Tào Sơn lại là kẻ có con
mắt soi thấu gan ruột kẻ đứng
trước mặt. Đành vậy, nhưng
thử hỏi Thanh Thoát đã uống
được thứ mỹ tửu đó
ở đâu cơ!
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Bần tự Phạm
Đan[7], Khí
như Hạng Vũ. Hoạt kế tuy
vô, Cảm dữ đấu phú[8].
貧 似
笵 丹
氣 如
項 羽
活 計
雖 無
敢 與
闘 富
(Nghèo tựa Phạm Đan, Hăng
như Hạng Võ. Không cách kiếm
ăn, Cũng dám đọ của)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Thanh Thoát đến gặp
Tào Sơn, có vẻ hết sức tự
hào về cái nghèo khó của
mình, nghĩa là muốn khoe rằng
lòng mình trống không (chân
không vô tướng), mảy may không
có gì (vô nhất vật), tự
mãn vì mình đã đạt
được chữ Không, nghĩa là
đã giác ngộ.
Tào Sơn bèn đột
ngột gọi “Thoát xà-lê!”
và Thanh Thoát bất chợt “Vâng!”
theo phản xạ. Xà-lê xưa có
nghĩa là tiên sinh, dùng để
xưng hô với lòng tôn kính
các bậc cao tăng nhưng giữa người
tu thiền, nó chỉ có nghĩa
thường là thầy, ông, mà
thôi.
Kinh Thánh Tân Ước
chép rằng: “Phước thay cho người
nghèo khó vì họ sẽ được
thấy mặt Chúa!”Lại có
chuyện một vị giáo sư đại
học nọ đến thăm Bạch Sơn
đạo tràng của cụ Nan.in (Nam
Ẩn), phát biểu dông dài về
tôn giáo.Lão tăng lắng nghe
không nói gì và chỉ lên
tiếng mời ông ta uống chén trà.
Dầu tách trà đã tràn
đầy mà nhà sư già vẫn
không ngừng rót. Trà đã
tràn ngập mặt chiếu, cụ không
chịu thôi cho. Lúc đó, cầm
lòng không đậu, vị giáo
sư kia yêu cầu cụ ngừng rót.
Cụ mới cười bảo: “Thì
nó cũng giống như trường hợp
của giáo sư. Bên trong đã
đầy rồi thì bên ngoài có
đưa gì vào nữa cũng chỉ
là vô ích”.
Nơi một chén trà,
cái gì là quan trọng? Có
phải hình thức, kiểu cọ, cách
nung, hay là vì nó là di phẩm
truyền lại từ một đại trà
sư cỡ Sen no Rikyuu[9]?
Không đâu, cái quan trọng nhất
trong chén trà là khoảng trống
không của nó. Chén không trống
thì trà, vật quan trọng hơn cả,
không thể đổ vào. Vì thế
kẻ có con tim thanh bần mới là
kẻ hạnh phúc hơn cả.
Trong khi thiền, ta ngồi trên
tấm bồ đoàn, để cho tâm
thân thống nhất và an định,
trước tiên phải phủ định
ngoại cảm. Chăm chỉ ngồi
thiền được lúc lâu thì
ngoại giới tuy không mất hẳn
nhưng tan biến dần, như thể có
đó mà không có đó.
Chẳng khác nào khi tập trung xem một
đoạn phim, ta quên cả tiếng quạt
máy đang quay vù vù trên đầu.
Đối với người ngồi thiền,
nó tương đương với chữ
Vô. Tiếp theo, ta sẽ phủ định
nội cảm.Đây là chuyện
khó thực hiện bởi vì vọng
tưởng muốn xóa vọng tưởng
lại là một vọng tưởng cũng
như “dùng máu để rửa
máu” cho nên vọng tưởng sẽ
không bao giờ hết tuyệt. Phải
dùng “nước để rửa
máu”. Nước ấy chính là
Sổ Tức Quán (quán pháp đếm
số hơi thở xuất nhập trong lúc
ngồi thiền). Nếu tinh tiến được
trong phép ấy, nội giới cũng như
ngoại giới đều tan rã và
người tu thiền đến gần trạng
thái “thuần nhất vô tạp”.
Lúc đó, trong tâm, một cái
lông thỏ cũng không còn, sẽ
nhập vào cảnh “chân không
vô tướng”. Đó là tâm
cảnh thanh bần, trong lòng không có
mảy may gì. Hòa thượng Thanh
Thoát đã mang theo tâm cảnh đó
đến đứng trước Thiền sư
Tào Sơn, như thể một thách
thức.
Khi Tào Sơn lên tiếng
hỏi và Thanh Thoát trả lời
“Vâng!” thì Tào Sơn xem
như Thanh Thoát không thấy cái
“diệu dụng” của “chân
không” mà chỉ ràng buộc
mình vào với cái “đản
không” (chỉ là không mà
thôi). Tào Sơn mới trách đã
uống được ba bát rượu
ngon rồi còn nói không là thế
nào?
Truyện trên cũng cùng
ý nghĩa với câu chuyện về
một tăng sĩ đến gặp Hòa
thượng Triệu Châu và hỏi:
-Khi không mang một vật (vô
nhất vật) nào đến thì
phải làm sao?
Triệu Châu trả lời:
-Phải đặt nó xuống!
(Phóng hạ trước!)
Rồi lúc khách hỏi:
-Không mang vật gì đến
mà sao lại bắt hạ nó xuống?
Thì hòa thượng mới
trả lời:
-À ra thế! Nếu vật ấy
quí giá đến cỡ đó
thì vác nó đem đi đi!
Như thế, Triệu Châu đã
phủ định chữ Không trong “vô
nhất vật” của tăng sĩ cũng
như Tào Sơn đã phủ định
cái Không trong sự “cô bần”
của Thanh Thoát.
Người học thiền bắt
buộc phải qua giai đoạn thể
nghiệm cái “cô bần” của
Thanh Thoát. Tọa thiền vì thế
không dễ dàng. Thế nhưng “chân
không” là “vô tướng”
cũng là “diệu dụng” (cái
máy động tuyệt diệu), và
phải “diệu dụng” mới được.
Người thầy dẫn đến chân
không (ông thầy thiền) đôi
lúc còn phải lột mất đi
cái không đơn thuần (đản
không) trong tâm cảnh của người
học thiền.
[1]
Thoại này chép trong Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục quyển
17, chương nói về Tào Sơn.
[2]
Thiền sư đời Đường,
tên gọi Tào Sơn Bản Tịch
(840-901).Nhận pháp tự của Động
Sơn Lương Giới, giúp ông
gây dựng phái Tào Động.
Có viết Phủ Châu Tào Sơn
Bản Tịch Thiền Sư Ngữ Lục
2 quyển. Tiểu sử có trong Tào
Sơn Lục (xem Vạn Tục Tạng), Tổ
Đường Lục quyển 8 và Tống
Cao Tăng Truyện quyển 13, Cảnh Đức
Truyền Đăng Lục quyển 17.
[3]
Không rõ là ai. Có
khi viết Thanh Thoát (một cách đọc
của chữ Thuế), có khi viết là
Thanh Nhuệ.
[4]
Thoát xà lê! Xà lê
nguyên văn Phạn ngữ là A xà
lê (Acarya) dịch là “chính
hành” hay “qui phạm”. Tiếng
xưng hô đối với các tăng
lữ.
[5]
Thanh Nguyên là tên đất
nơi làm rượu ngon. Họ Bạch
là tên người cất rượu,
chú thích xưa cho biết Bạch
gia còn có thể là Bách hiên
gia (nhà trăm hiên).
[6]
Đã uống xong mà cứ
kêu ầm là mình chưa uống.
[7]
Còn gọi là Phạm Nhiễm,
tự là Tử Vân, thụy hiệu
Trinh Tiết tiên sinh.Truyện có chép
trong Hậu Hán Thư Liệt
Truyện. Người nghèo kiết xác
nhưng biết sống an nhiên tự tại.
Có bài hát về ông như
sau: “Trong chum bụi đóng. Trong nồi
cá lội”.
[8]
Thi đua xem ai giàu hơn như
Vương Khải đấu của với
Thạch Sùng.
[9]
Thiên, Lợi Hưu (1522-1591). Trà
đạo gia nổi tiếng thời Azuchi
Momoyama.Được coi như một nhà
văn hóa lớn.
|