Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 9: Phật Đại Thông Trí Thắng (Đại Thông Trí Thắng)[1].

大通智勝

Bản tắc:

Có một tăng sĩ hỏi hòa thượng Hưng Dương Thanh Nhượng[2]:

- Nghe nói Phật Đại Thông Trí Thắng[3] tu tọa thiền trong đạo trường lâu đến mười kiếp[4] nhưng Phật pháp không hiện ra trước mắt, Phật đạo cũng không thành tựu. Xin hỏi lý do tại sao?

Thanh Nhượng mới trả lời:

- Câu hỏi của ông đặt ra bắn trúng đích đấy! 

Tăng bèn thưa:

- Ngài muốn nói: “Bởi vì tọa thiền trong đạo trường (nơi giác ngộ) cho nên đương nhiên là đã khai ngộ và thành tựu trong Phật đạo rồi, có lý do nào mà không thành tựu trong Phật đạo!” hay sao chứ?

Thanh Nhượng lại đáp:

- Lý do là vị đó “tự mình” không thành Phật mà thôi.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Hãy chấp nhận cái trí tuệ Bát Nhã (chân tri = phân biệt cái vô phân biệt bằng sự giác ngộ qua thể nghiệm bản thân) của Lão Hồ (Thích Ca hay Tổ sư Đạt Ma) nhưng không chấp nhận cái phân biệt tri giải (lý hội = tri thức phân biệt đơn thuần bằng đầu óc) của Lão Hồ[5]. Kẻ phàm phu chỉ cần được trí tuệ Bát Nhã, tức khắc sẽ thành thánh nhân. Còn bậc thánh nhân nếu bước sang chỗ phân biệt tri giải thì tức khắc sẽ thành kẻ phàm phu.

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Liễu thân hà tự liễu tâm hưu,
Liễu đắc tâm hề thân bất sầu.
Nhược dã thân tâm câu liễu liễu,
Thần tiên hà tất cánh phong hầu.

了 身  
了 得  
若 也
神 仙

(Thân kia nào quí được như tâm,
Tâm đã ngộ rồi nhẹ cái thân.
Ham gì trọn vẹn hai đàng nhỉ,
Là Phật rồi, phong chức có cần?)

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Kiếp (kalpa), theo cách hiểu thú vị của người Ấn Độ là một nền đá rộng vuông vức, mỗi cạnh bốn mươi dặm, cứ một trăm năm lại có người tiên giáng hạ, lấy áo lông vũ quét nhẹ lên. Nếu nền đá chưa bị mài mất thì kiếp chưa hết. Ý nói khoảng thời gian cực dài. Người Trung Quốc không biết làm sao giảng nghĩa, chỉ dùng chữ “trường thì”.

Phật Đại Thông Trí Thắng có nghĩa là vị Phật trí tuệ lỗi lạc, cái gì cũng hiểu, cái gì cũng biết. Ông tu thiền đã 10 kiếp, lý ra đã thành tựu Phật đạo rồi nhưng cớ sao vẫn chưa. Nhà sư kia căn vặn và Thanh Nhượng đã phải giải thích lý do là vì Đại Thông Trí Thắng tự mình chưa thành Phật.

Khi dạy người ta trở thành kẻ đánh cờ chuyên nghiệp, trước hết không được dạy cờ thế mà phải để cho người ấy sau khi đánh nhiều ván, tự nhiên tự mình lãnh hội được. Trong chốn thiền môn, giảng nghĩa đến một lúc nào đó phải ngừng nếu không lại làm vướng bận tâm trí ngưới tu học. Thế nhưng trước quí độc giả là những người không chuyên thì tôi không thể nào làm lối đó. Cho phép tôi dài dòng một chút:

Phật (Buddha) có nghĩa là bậc giác ngộ (The Awakened One), nghĩa là kẻ “tự mình thức tỉnh” về cái “con người chân thực” xưa nay của mình.Phật đạo chỉ là con đường “chân thực” để đi tìm con người mình có xưa nay (tự kỷ bản lai).Một khi đã thức tỉnh rồi, chúng sinh đều là “bản lai Phật”.Thành một thứ Phật cao hơn Phật là chuyện không cần thiết. Câu nói “Phật Đại Thông Trí Thắng không thành Phật” nằm trong ý nghĩa đó. Đã là Phật rồi thì mắc mớ gì trở thành Phật nữa. Thiền sư Bankei Yôtaku (Bàn Khuê Vĩnh Trác) ở Nhật nhân đấy có nói : “ Thay vì làm sao cho mình trở thành Phật, hãy làm những gì để mình là Phật thì mới gọi là biết chọn con đường rút ngắn”.

Chắc nhiều người trong số quí vị sẽ nói “À, ra là thế! Chỉ có nhiêu đó sao?” rồi dùng đầu óc, tư tưởng để tìm hiểu, xem công án này như trò chơi khăm. Thế nhưng, cách “tín tâm quyết định” ở đây không phải chuyện dễ đâu nhé! Nếu chỉ ngừng lại ở chỗ hiểu biết công án bằng đầu óc thì không thể tham thiền một cách đứng đắn và quả là chuyện đáng tiếc.

Chúng sinh đã là bản lai Phật rồi thì cần gì thành Phật nữa. Cho nên thiền sư mới bảo rằng cho dù là điều tổ sư Đạt Ma dạy, chỉ nên nghe theo một phần thôi. Ở điểm này, Vô Môn có vẻ khoáng đạt hơn Đạt Ma. Đây là một khuyến cáo thân mật và thích hợp mà ông đã truyền lại cho chúng ta.


[1] Thoại này có chép trong Pháp Hoa Kinh, phần Hóa Thành Dụ Phẩm. Lâm Tế Lục cũng có bài thị chúng kể lại chuyện Trí Thắng và cho rằng điều trọng yếu của người tu là được con tâm thanh tĩnh chứ không phải có cái danh hiệu Phật hay không.

[2] Học trò đàn cháu 8 đời của Bách Trượng Hoài Hải. Năm sinh năm mất không rõ. Tên được nhắc đến trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển 13 và Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 9. Hành trạng không rõ.

[3] Một vị Phật thượng cổ tượng trưng cho trí tuệ hiểu biết.

[4] Nguyên tiếng Phạn kalpa (kiếp ba), một đơn vị thời gian cực dài.Thường chỉ sự sinh diệt của vũ trụ. Tứ kiếp chỉ thời gian qua 4 giai đoạn từ lúc vũ trụ sinh thành đến lúc bị tiêu diệt, thành kiếp, trú kiếp, hoại kiếp, không kiếp.

[5] Cả hai (chân tri và lý hội) đều là mục đích của người tu Thiền. Vô Môn coi trọng chân tri hơn lý hội.

 

 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 9: Phật Đại Thông Trí Thắng (Đại Thông Trí Thắng)[1].

大通智勝

Bản tắc:

Có một tăng sĩ hỏi hòa thượng Hưng Dương Thanh Nhượng[2]:

- Nghe nói Phật Đại Thông Trí Thắng[3] tu tọa thiền trong đạo trường lâu đến mười kiếp[4] nhưng Phật pháp không hiện ra trước mắt, Phật đạo cũng không thành tựu. Xin hỏi lý do tại sao?

Thanh Nhượng mới trả lời:

- Câu hỏi của ông đặt ra bắn trúng đích đấy! 

Tăng bèn thưa:

- Ngài muốn nói: “Bởi vì tọa thiền trong đạo trường (nơi giác ngộ) cho nên đương nhiên là đã khai ngộ và thành tựu trong Phật đạo rồi, có lý do nào mà không thành tựu trong Phật đạo!” hay sao chứ?

Thanh Nhượng lại đáp:

- Lý do là vị đó “tự mình” không thành Phật mà thôi.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Hãy chấp nhận cái trí tuệ Bát Nhã (chân tri = phân biệt cái vô phân biệt bằng sự giác ngộ qua thể nghiệm bản thân) của Lão Hồ (Thích Ca hay Tổ sư Đạt Ma) nhưng không chấp nhận cái phân biệt tri giải (lý hội = tri thức phân biệt đơn thuần bằng đầu óc) của Lão Hồ[5]. Kẻ phàm phu chỉ cần được trí tuệ Bát Nhã, tức khắc sẽ thành thánh nhân. Còn bậc thánh nhân nếu bước sang chỗ phân biệt tri giải thì tức khắc sẽ thành kẻ phàm phu.

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Liễu thân hà tự liễu tâm hưu,
Liễu đắc tâm hề thân bất sầu.
Nhược dã thân tâm câu liễu liễu,
Thần tiên hà tất cánh phong hầu.

了 身  
了 得  
若 也
神 仙

(Thân kia nào quí được như tâm,
Tâm đã ngộ rồi nhẹ cái thân.
Ham gì trọn vẹn hai đàng nhỉ,
Là Phật rồi, phong chức có cần?)

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Kiếp (kalpa), theo cách hiểu thú vị của người Ấn Độ là một nền đá rộng vuông vức, mỗi cạnh bốn mươi dặm, cứ một trăm năm lại có người tiên giáng hạ, lấy áo lông vũ quét nhẹ lên. Nếu nền đá chưa bị mài mất thì kiếp chưa hết. Ý nói khoảng thời gian cực dài. Người Trung Quốc không biết làm sao giảng nghĩa, chỉ dùng chữ “trường thì”.

Phật Đại Thông Trí Thắng có nghĩa là vị Phật trí tuệ lỗi lạc, cái gì cũng hiểu, cái gì cũng biết. Ông tu thiền đã 10 kiếp, lý ra đã thành tựu Phật đạo rồi nhưng cớ sao vẫn chưa. Nhà sư kia căn vặn và Thanh Nhượng đã phải giải thích lý do là vì Đại Thông Trí Thắng tự mình chưa thành Phật.

Khi dạy người ta trở thành kẻ đánh cờ chuyên nghiệp, trước hết không được dạy cờ thế mà phải để cho người ấy sau khi đánh nhiều ván, tự nhiên tự mình lãnh hội được. Trong chốn thiền môn, giảng nghĩa đến một lúc nào đó phải ngừng nếu không lại làm vướng bận tâm trí ngưới tu học. Thế nhưng trước quí độc giả là những người không chuyên thì tôi không thể nào làm lối đó. Cho phép tôi dài dòng một chút:

Phật (Buddha) có nghĩa là bậc giác ngộ (The Awakened One), nghĩa là kẻ “tự mình thức tỉnh” về cái “con người chân thực” xưa nay của mình.Phật đạo chỉ là con đường “chân thực” để đi tìm con người mình có xưa nay (tự kỷ bản lai).Một khi đã thức tỉnh rồi, chúng sinh đều là “bản lai Phật”.Thành một thứ Phật cao hơn Phật là chuyện không cần thiết. Câu nói “Phật Đại Thông Trí Thắng không thành Phật” nằm trong ý nghĩa đó. Đã là Phật rồi thì mắc mớ gì trở thành Phật nữa. Thiền sư Bankei Yôtaku (Bàn Khuê Vĩnh Trác) ở Nhật nhân đấy có nói : “ Thay vì làm sao cho mình trở thành Phật, hãy làm những gì để mình là Phật thì mới gọi là biết chọn con đường rút ngắn”.

Chắc nhiều người trong số quí vị sẽ nói “À, ra là thế! Chỉ có nhiêu đó sao?” rồi dùng đầu óc, tư tưởng để tìm hiểu, xem công án này như trò chơi khăm. Thế nhưng, cách “tín tâm quyết định” ở đây không phải chuyện dễ đâu nhé! Nếu chỉ ngừng lại ở chỗ hiểu biết công án bằng đầu óc thì không thể tham thiền một cách đứng đắn và quả là chuyện đáng tiếc.

Chúng sinh đã là bản lai Phật rồi thì cần gì thành Phật nữa. Cho nên thiền sư mới bảo rằng cho dù là điều tổ sư Đạt Ma dạy, chỉ nên nghe theo một phần thôi. Ở điểm này, Vô Môn có vẻ khoáng đạt hơn Đạt Ma. Đây là một khuyến cáo thân mật và thích hợp mà ông đã truyền lại cho chúng ta.


[1] Thoại này có chép trong Pháp Hoa Kinh, phần Hóa Thành Dụ Phẩm. Lâm Tế Lục cũng có bài thị chúng kể lại chuyện Trí Thắng và cho rằng điều trọng yếu của người tu là được con tâm thanh tĩnh chứ không phải có cái danh hiệu Phật hay không.

[2] Học trò đàn cháu 8 đời của Bách Trượng Hoài Hải. Năm sinh năm mất không rõ. Tên được nhắc đến trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển 13 và Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 9. Hành trạng không rõ.

[3] Một vị Phật thượng cổ tượng trưng cho trí tuệ hiểu biết.

[4] Nguyên tiếng Phạn kalpa (kiếp ba), một đơn vị thời gian cực dài.Thường chỉ sự sinh diệt của vũ trụ. Tứ kiếp chỉ thời gian qua 4 giai đoạn từ lúc vũ trụ sinh thành đến lúc bị tiêu diệt, thành kiếp, trú kiếp, hoại kiếp, không kiếp.

[5] Cả hai (chân tri và lý hội) đều là mục đích của người tu Thiền. Vô Môn coi trọng chân tri hơn lý hội.

 

 

Trở về