Tắc
số 8:
Hề
Trọng chế xe (Hề Trọng tạo
xa)[1].
奚仲造車
Bản tắc:
Có bữa, hòa thượng
Nguyệt Am hỏi một tăng sĩ:
- Hề Trọng[2]
là người chế một trăm cỗ
xe[3]
nhưng ông lại đem tháo bánh
lẫn trục xe ra mất. Thử hỏi, qua
điều đó, ông ta muốn chứng
minh chân lý nào?
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Nếu ai hiểu rõ được
chuyện này cái một, thì con
mắt của hắn phải sáng như
sao sa, cơ trí [4]
của hắn phải nhanh như điện
chớp.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Cơ luân chuyển xứ, Đạt
giả do mê. Tứ duy[5]
thượng hạ, Nam bắc đông
tê.
機 輪
轉
處
達 者
猶
迷
四 維
上
下
南 北
東
西
(Bánh máy chuyển động, Kẻ
đạt còn mê. Bốn phương
tám hướng, Tưởng trúng,
ai dè!)
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Thiền sư Nguyệt Am Thiện
Quả (1079-1152, học trò đàn
cháu của ngũ tổ Pháp Diễn),
tức là pháp tổ ba đời
trước của hòa thượng Vô
Môn đã đặt câu hỏi
trên cho một tăng sĩ vân du. Ý
nói người chế tạo xe đời
thượng cổ là Hề Trọng, đã
từng làm ra không biết bao nhiêu
là cỗ xe thế nhưng lại đem
phá bánh, tháo trục xe thành
từng bộ phận.Thế thì ông
ấy muốn chứng tỏ điều chi
vậy.
Công án là như thế.
Nó có thể hiểu như thế
nào? Theo tôi, có thể nói đó
là công án giúp cho người
tu hành thể nghiệm được một
cách rõ ràng chữ Không (cũng
có thể gọi bằng chữ Vô),
trung tâm tư tưởng của Phật
Giáo Đại Thừa. Nếu mở
bánh, rút căm xe ra, thì hỏi
còn gì là xe nữa. Không còn
gì cả, chỉ còn cái Không.
Lão Tử có nói “Nếu đếm
được xe thì không có
xe”.Cũng như lời Nguyệt Am đã
nói, tháo từng bộ phận của
xe ra mà đếm đây là bánh
xe, đây là trục xe... thì xe
không tồn tại nữa. Rốt cuộc,
tất cả trở về thời điểm
khi không có gì hết.
Cổ nhân có bài đạo
ca ý nói: “Đem mấy thanh củi
kết lại thì cất được
cái am, còn gỡ chúng ra thì
chỉ còn cánh đồng không”.
Chặt cây trên cánh đồng
Musashino (Tôkyô ngày nay, LND) làm
trụ, trải tranh làm mái, trét
bùn làm tường, tụ họp đủ
mọi thứ thì sẽ dựng được
một cái am. Cũng cái am đó,
nếu không còn ai ở, thì với
năm tháng, gió mưa, nó sẽ
tan rã rồi không biết lúc nào,
chẳng còn thấy gì nữa, ngoài
cánh đồng hoang từng có trước
đó.
“Chư hành vô
thường”. Cuộc đời này
đâu có gì vĩnh viễn bất
biến. Tất cả mọi sự vật
đều trôi chảy, không có gì
đứng lại một chỗ. Kinh Thánh
cũng thấy chép: “Ôi, hư
không lại trở thành hư không!”
Cách nhìn cái không có tính
phủ định này, Phật Giáo
Tiểu Thừa gọi là Tích Không
Quán. Nó khác với Thể Không
Quán trong Đại Thừa.
Về điều nói trên,
trong Bát Nhã Tâm Kinh có viết
“Sắc tức thị không” (Cái
có hình tướng đều là
hư không), nhưng lại viết thêm
ngay “Không tức thị sắc”
(Cái Không tự thể cũng có
hình tướng). Nếu chỉ thấy
cái không ở chỗ hoa rơi thì
đó chỉ thấy cái “thiên
không”, nghĩa là mang một cách
nhìn thiên lệch, thiếu sót.
Cái “chân không” (cái
Không thực sự) là cái Không
phải thấy được trong hình
tướng của hoa khi nở rộ cũng
như khi hoa tàn rụng. Nhà thơ
Ogasawara Nagao viết “Này xá lợi
tử! Hãy nhìn hoa chưng (bày).
Không tức thị sắc”. Chuyện
hoa nở cũng là thường trụ
mà hoa rơi rụng cũng là thường
trụ.
Chấp nhận “Chư
hành vô thường” nhưng xin
đừng tìm cách tách rời
“vô thường” với “thường
trụ”. Nói cách khác, ngay
chính giữa cái vô thường
ấy đã có sự thường
trụ, không lưu chuyển, ở mãi
một chỗ rồi.Đó là quan
điểm “thể không” của
Đại Thừa, khác với cái
nhìn “tích[6]
không” trong triết lý Tiểu Thừa
đã nhắc đến.
Bảo rằng công án nào
cũng chứa một kiến giải riêng
(nhất tắc nhất tắc biệt kiến
giải), mỗi công án nhất định
có đưa ra một phương pháp,
thế nhưng, phương pháp ấy
mới chỉ có dưới dạng tư
tưởng, cho nên dù có nghiên
cứu nó, vẫn chưa có thể
gọi là tham cứu. Thiền là
tôn giáo của sự thể nghiệm.
Phải tự đem mình làm vật
thí nghiệm (thể nghiệm để).
Thể hiện nó trước mặt
thầy như thế nào là vấn
đề của người tu thiền.
Xin Phật xá tội để
làm một chuyện quấy là tiết
lộ đôi chút những gì xãy
ra trong mật thất:
Có công án gọi là:
“Hãy thử làm tắt ngọn
đèn ở xa ngàn dặm bên
kia” .
Khi
nào còn phân biệt bản thân
mình (chủ quan) và ngọn đèn
(khách quan) như hai vật khác nhau,
sẽ không bao giờ thành công.Thế
nhưng nếu đứng ở chỗ chưa
sinh ra (bất sinh chi trường, theo Bankei)
lúc chủ thể và khách thể
chưa phân biệt được (chủ
khách vị phân, theo Nishida Sunshin) thì
giải quyết được ngay. Ngặt
lúc đó ông thầy nói:
“Hãy còn là tích
không quán
đấy nhé!”. Người tu thiền
lại nhập thất, ngồi xuống đất,
chấp hai tay đặt trên đầu,
biến mình thành “nhất đại
đăng minh”, bừng bừng bốc
cháy. Trời đất nhập
một
thành ngọn lửa. Không còn cần
phải dập tắt hay không dập tắt
nữa. Thầy lúc đó sẽ mỉm
cười nhẹ nhàng.
[1]
Truyện thấy chép trong Ngũ
Đăng Hội Nguyên, phần nói
về Nguyệt Am.
[2]
Theo sách “Vạn Tục
Tạng” thì “Hề Trọng
người nhà Hạ, bề tôi vua
Đại Vũ, người đầu tiên
biết thắng ngựa vào xe, được
cử làm chức xa chính”. Mặc
Tử, quyển thứ 9 có nhắc đến
việc ông chế xe trong phần Phi Nho hạ
39: “Hề Trọng chế xe. Xảo Thùy
đóng thuyền”. Lục Nghệ
Luận của Trịnh Huyền cho biết:
“ Hề Trọng là một trong bảy
người phù tá Hoàng Đế.
Biết chế ra xe”.
[3]
Nguyên văn “Hề Trọng
tạo xa nhất bách bức” mà
bức (phúc) có nghĩa là nhíp
xe hoặc căm bánh xe. Các dịch
giả dịch theo nhiều lối khác
nhau, có khi là “trăm cỗ xe”
(hàng loạt xe) hay chỉ là “bánh
xe có trăm cây căm”. Trong khi
chờ đợi một kiến giải có
tính thuyết phục hơn cả, xin
theo lối dịch của Akizuki Ryômin.
[4]
Nguyên văn là cơ tức
cơ căn, cơ phong, thiền cơ. Ý
nói có phản ứng hiểu đạo
nhanh chóng.
[5]
Bốn góc (tứ duy): càn
(tây bắc), khôn (tây nam), cấn
(đông bắc), tốn (đông nam).
Cùng với thượng hạ và tứ
phương làm thành toàn thể
vũ trụ.
[6]
Tích= tách ra, phân tích.
Thể =bản thể, bản chất.
|