Tắc
số 6:
Phật chìa nhánh hoa (Thế Tôn
niêm hoa)[1].
世尊拈花
Bản tắc:
Xưa Đức Thế
Tôn[2]
trong một pháp hội
trên núi Linh Thứu, cầm lấy một
nhánh hoa rồi chìa ra trước mặt
mọi người.Không thấy ai phản
ứng gì cả, chỉ có tôn
giả Ca Diếp[3]
mặt rạng rỡ, miệng
mỉm cười. Đức Thế Tôn
mới nói rằng:
Ta có nhiều pháp
môn vi diệu như Chính Pháp Nhãn
Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thực
Tướng Vô Tướng[4]...Bằng
phương pháp bất lập văn tự,
giáo ngoại biệt truyền[5],
sẽ trao cả cho Ma Kha Ca Diếp.(Ta nhờ
ngươi đấy, Ca Diếp nhé!)
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cái lão Cồ Đàm
(Gotama, tức Thích Ca) mặt vàng[6]
thật là bàng nhược
vô nhân. Cứ như kiểu đó
thì lão coi bên cạnh mình
chẳng có ai cả, và xem bát
phương đại chúng hiền lành
như thể đám nô lệ[7].
Thuyết rằng mình còn để
dành cái pháp “vị hiển
chân thực” mà chìa nhành
hoa là treo đầu dê để
bán thịt chó đấy. Tưởng
cao siêu lắm, hóa ra chỉ có
chừng nớ. May lúc đó còn
có Ca Diếp mỉm miệng cười.
Nếu Ca Diếp không cười thì
cái Chính Pháp Nhãn Tạng làm
cách nào mà truyền cho ai được.
Còn nhỡ đại chúng tất cả
đều cười thì lại hỏng
chuyện mất! Ông Thích Ca ơi, lúc
đó đem Chính Pháp Nhãn
Tạng truyền người nào bây
giờ! Nếu bảo Chính Pháp Nhãn
Tạng có thể truyền cho là ông
đã đánh lừa lũ dân
quê chất phác. Còn ngược
lại, nếu bảo pháp ấy không
thể đem truyền cho được, thế
thì tại sao ông có thể chọn
một mình Ca Diếp làm người
thừa kế?
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Niêm khởi hoa lai, Vĩ ba
dĩ lộ. Ca Diếp phá nhan, Nhân
thiên võng thố.
拈
起
花
來
尾
巴
已
露
迦
葉
破
顏
人
天
罔
措
(Vừa nhấc hoa lên, Đuôi
thầy đã ló. Ca Diếp mỉm
cười, Mọi người lớ ngớ).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Truyện Thích Ca Mâu Ni trên
ngọn Linh Thứu chìa một nhánh
hoa ra trước thiên thượng địa
hạ tám vạn bốn nghìn đại
chúng trở thành công án nổi
tiếng nói về nguồn gốc của
Thiền Tông. Vì “tứ thập
cửu niên, vị hiển chân thực”
cho nên hôm đó Phật sẽ
giảng về cái pháp mà bốn
mươi chín năm giảng đạo
chưa hề thực sự bộc lộ.
Trước đại chúng đang nóng
lòng chờ đợi ngày hôm đó,
Thích Ca chỉ chìa ra trước mặt
họ một cành hoa sen (kim-ba-la-hoa) do một
cư sĩ tên Đại Phạm Thiên
Vương cúng dường. Hình thức
của lối biểu hiện này cũng
giống như nhất-chỉ-đầu-thiền
(thiền một ngón tay) của Thiên
Long và Câu Chi mà quí độc
giả vừa xem. Ở đầu cành
hoa đưa lên, Chánh Pháp Nhãn
Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm...tất
cả đều hiển lộ. Chìa ra
cho mọi người nhưng tất cả
đều im lặng, chỉ có Ca Diếp
mỉm cười tiếp nhận. “Duy
Phật tả Phật”, (chỉ có
Phật hiện ra trước Phật) như
hình ảnh thấy giữa hai mặt kính
đối diện. Trong hoàn cảnh ấy,
lần đầu tiên đại pháp
mới được nối tiếp bằng
sự truyền thụ từ thầy sang trò.
Lúc đó không cần có chữ
viết (bất lập văn tự) và
pháp được bàn giao ngoài
hình thức dạy dỗ (giáo ngoại
biệt truyền) bằng cách “dĩ
tâm truyền tâm” nghĩa là
lấy sự đồng cảm giữa tâm
hồn làm căn bản. Và như
thế, Thích Ca đã trông cậy
vào Ca Diếp để nối tiếp
con đường mình đi. Từ đó,
những kẻ có ấn khả của
thiền đều truyền nó cho đệ
tử của mình bằng cách giúp
người đó đạt được
cùng một tâm cảnh như mình.
Thiền xưng là Phật Tâm
Tông, Phật Giáo Tổng Phủ hay
cốt lõi của đạo Phật. Cái
phật tâm ấy được truyền
từ Thích Ca đến Ca Diếp, từ
Ca Diếp đến A Nan. Người thừa
kế tứ thất bên Tây Thiên
là Đạt Ma chính là tổ sư
đời thứ 28 (theo cách tính tứ
thất hay 4 lần 7).Ngài cũng là
tổ thứ nhất của Đông độ,
và từ đó truyền xuống Huệ
Khả, Huệ Khả xuống Tăng
Xán...theo cách tính 2 lần 3 hay
nhị lục để có sáu vị
(lục tổ) mà người thứ sáu
là Huệ Năng Thiền Sư. Như
thế, thiền từ đó đã
Trung Quốc hóa.
Ngày
nay các nhà nghiên cứu chỉ tìm
tòi Phật pháp của Thích Ca
qua những kinh điển nguyên thủy.
Và nếu so sánh với giáo lý
cơ sở của Thích Ca thì ta thấy
rằng Thiền tông đã thay hình
đổi dạng rất nhiều. Dù
trong Phật Giáo Đại Thừa có
“phi Phật thuyết” hay không,
phải làm cách nào để
nhìn thấy cách truyền thụ gọi
là “nhân pháp” nghĩa là
giữa người với người, tâm
với tâm, Phật với Phật, mà
khỏi cần dùng đến kinh điển.
Thiền quả có phát triển và
biến dạng trong dòng lịch sử
lâu dài đấy, thế nhưng,
xuyên qua suốt dòng lịch sử,
đạo Phật chính là cái
đạo truyền từ người này
đến người nọ mà Thích
Ca đã diễn đạt bằng “con
mắt nhìn được chân lý
chính đáng” (Chính Pháp
Nhãn Tạng) và “tấm lòng
liễu ngộ về nguyên lý bất
sinh bất diệt” (Niết Bàn Diệu
Tâm) .
[1]
Đây là một truyện
trích trừ một ngụy kinh (kinh giả
mạo) của Trung Quốc tên gọi Đại
Phạm Thiên Vương Vấn Phật
Quyết Nghi Kinh, trong Niêm Hoa Phẩm đệ
nhị.
[2]
Biểu âm của tiếng Phạn
Bhagavat, chỉ
bậc tôn quí trên đời. Một
trong mười cách gọi Thích Ca
(Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến
Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế
Tôn).
[3]
Biểu âm của tiếng Phạn
Makhakasyapa (Ma
Kha Ca Diếp), lược thành Ca Diếp.
Một trong mười đại đệ
tử của Thích Ca. Tiểu sử có
chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục, quyển 1.
[4]
Chính Pháp Nhãn
Tạng tức là con mắt Phật nhìn
được chân lý chính đáng
đang tàng ẩn thâm sâu, là
cái bất khả tư nghì, bất
khả đắc. Niết Bàn Diệu
Tâm là tấm lòng liễu ngộ
về nguyên lý bất sinh bất
diệt, bởi vì không thể giảng
nghĩa được nên mới gọi
là diệu tâm. Còn Thực Tướng
Vô Tướng có nghĩa là thực
tướng với vô tướng vốn
giống nhau mà thôi.
[5]
Chữ dùng thấy
trong bài tựa của Thiền Nguyên
Chư Thuyên Tập, nói về cách
truyền giáo của Đạt Ma khi sang
Đông độ. Lại nữa, trong
sách Tổ Đình Sự Uyển có
nói rằng lúc đầu các tổ
truyền pháp thường sử dụng
ba tạng kinh lớn, đến Đạt
Ma tổ sư thì mới có tâm
ấn đơn truyền, phá chấp
hiển tông. Điều đó thường
được gọi là giáo ngoại
biệt truyền bất lập văn tự,
trực chỉ nhân tâm kiến tính
thành Phật.
[6]
Nguyên văn “hoàng
diện Cồ Đàm”, thân Phật
lấp lánh vàng nên mặt màu
vàng. Có thuyết khác cho rằng
vì Phật sinh ở Kapilavastu (thành
Hoàng Sắc) nên mới có tên
gọi như thế. Để ý ở
Trung Quốc còn có những lối
gọi tên Phật khác như Hoàng
Lão, Hoàng Diện Lão Tử,
Hoàng Đầu. Sở dĩ như thế
vì họ xem Thích Ca cũng như Lão
Tử.
[7]
Nguyên văn “yếm
lương vi tiện”. Theo Tư Trị
Thông Giám, quyển 23 nói về
sự kiện trong tháng 2 năm Thiên
Phúc thứ 8, câu này nguyên
nghĩa là “mua con cái lương
dân để làm nô tì”.
|