Tắc
số 3:
Câu
Chi giơ ngón tay (Câu Chi thụ chỉ)[1].
倶胝竪指
Bản tắc:
Hòa thượng Câu
Chi[2],
hễ có ai chất vấn về thiền,
đều đưa một ngón tay lên.
Ở chỗ Câu Chi có một chú
tiểu, khi nghe người khách lạ từ
xa đến hỏi: “Hòa thượng
chùa này giảng về những yếu
quyết trong Phật pháp như thế
nào?”, đã đưa ngay tức
khắc một ngón tay lên.Hòa
thượng Câu Chi nghe được
chuyện đó, cầm dao chặt phăng
ngón tay của chú ta. Tiểu chịu
đau không nổi khóc thét lên
và bỏ chạy. Thấy thế, hòa
thượng gọi với bảo dừng.
Chú ta bèn quay đầu lại thì
thấy lúc đó, hòa thượng
lại giơ một ngón tay của mình
lên. Chú tiểu thoáng thấy đã
ngộ đạo. Khi Câu Chi lâm chung,
ông cho gọi tất cả tăng chúng
tụ tập lại, và nói:
-Khi ta tu với hòa thượng
Thiên Long, học được kiểu
thiền một ngón tay, thế mà
dùng suốt đời vẫn chưa hết.
Nói xong, trút hơi
thở cuối cùng.
Bình xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cả Câu Chi lẫn chú
tiểu, không phải nhờ đưa một
ngón tay lên mà ngộ đạo.
Nếu các ngươi nhận ra được
ý nghĩa thực sự của điểm
này thì có thể xâu trọn
từ hòa thượng Thiên Long, hòa
thượng Câu Chi, chú tiểu và
cả chính các ngươi nữa
thành một chuỗi [3].
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Câu Chi độn[4]
trí lão Thiên Long, Lợi
nhận đơn đề khám tiểu
đồng. Cự Linh[5]
đài thủ vô đa
tử[6], Phân
phá Hoa Sơn thiên vạn trùng.
俱
胝
鈍
置
老
天
龍
利
刃
單
提
勘
小
童
巨
靈
抬
手
無
多
子
分
破
花
山
千
萬
重
(Câu Chi chơi xỏ lão
Thiên Long, Dao bén đưa ra nhử
tiểu đồng. Cự Linh phá núi
Hoa bao lớp. Cũng chỉ giơ tay, lọ
tốn công).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Hòa thượng Câu Chi
thuộc dòng thiền Mã Tổ bởi
vì thầy Thiên Long của ông là
học trò của Đại Mai Pháp
Thường. Công án nói trên,
trong một sách khác, lại biến
dạng đi một chút:
Sách ấy kể rằng Câu
Chi trước khi chết, gọi học trò
lại và bảo: Ta theo học lão sư
Thiên Long được kiểu thiền
một ngón tay (nhất chỉ thiền)
mà cả đời dùng hoài dùng
mãi vẫn không hết. Cái nhân
duyên giữa ông với thiền một
ngón tay đã xảy ra như sau:
Trước kia, Câu Chi là
một tăng sĩ sống trong một cái
am con, tự phụ mình đã tu học
đến nơi đến chốn. Một
hôm có một sư nữ đến
thăm. Bà này cũng thuộc loại
kiệt xuất. Vào trong am của ông
rồi mà đầu vẫn đội
nón mê. Sau khi chọc khắp nơi
bằng cái tích trượng dùng
để đi đường, bà bước
quanh chỗ sư ngồi ba lần, rồi đến
đứng trước mặt bảo: “Nếu
ông dạy được một câu
có thể giúp người khác
ngộ đạo thì ta sẽ cởi nón
ra”. Nói như thế ba lần nhưng
không lần nào thiền sư trả
lời điều bà muốn. Ông chỉ
tử tế hỏi thăm: “Trời đã
tối, chưa tìm ra chỗ ngủ, bà
tính sao đây?”. (May mắn là
ông đã nói được một
câu, câu nói thông thường
nông dân vẫn hay hỏi khách lạ).
Sư nữ đó vẫn
không để cho chuyện tầm thường
lôi cuốn, tiếp tục bức bách:
“Nếu ông trả lời được,
ta sẽ xin ngủ lại!”. Thế nhưng
thiền sư vẫn giữ nguyên sự
im lặng.
Sư nữ bèn phất tay áo,
bỏ đi.
Tôi hôm đó, thiền
sư Câu Chi buồn bực vì mình
chẳng trả lời nổi sự thách
thức của bà kia, không tài nào
nhắm mắt.Ông suy nghĩ: “Làm
thân đàn ông như ta mà
không có khí phách nam nhi. Được
rồi, ta sẽ bỏ am lên đường
hành cước, đi tìm danh sư
tu hành trở lại, để giác
ngộ chân lý mới được”.
Đó là điều người ta
gọi là “biết xấu hổ”
(thức tu) vậy.
Tuy nhiên, lúc đó,
Câu Chi nằm mộng thấy một vị
thần hiện ra bảo: “Chớ đi
đâu cả. Sắp có một vị
bồ tát mang nhục thân đến
đây và sẽ dạy ngươi
hiểu đạo.” Đúng như
thế, khoảng mươi hôm thì
Thiên Long lão sư, người nhận
pháp tự của hòa thượng
Đại Mai, tìm đến. Lúc ấy,
Câu Chi mới bày tỏ mọi sự
và xin được dạy bảo. Thiên
Long chẳng nói chẳng rằng, chỉ
giơ một ngón tay lên.Thấy thế,
đột nhiên Câu Chi hiểu ra lẽ
đạo.Từ đó, lúc nào
trả lời câu hỏi của học
trò, lúc nào Câu Chi cũng chỉ
đưa một ngón tay lên và
không đề xướng một lý
thuyết nào cả.
Giống như ý hai câu
thơ của người xưa:
Bất kiến Tây Hồ
Lâm Xử Sĩ[7],
Nhất sinh thụ dụng chỉ mai hoa.
不 見 西 湖 林 処 士
一 生 受 用 只 梅 花
(Chẳng thấy Tây Hồ Lâm
Xử Sĩ, Một đời chỉ thiết
mỗi hoa mai?)
Nên Câu Chi cả đời
sử dụng “nhất chỉ thiền”
thôi là đã đủ.
Quên mất cái ngã
(vong ngã, phủ định tự ngã,
chân không vô tướng), rồi
vô tâm, đưa thẳng một ngón
tay lên (khẳng định tự ngã,
chân không diệu hữu) để cho
trời đất hoàn toàn tụ hội
lại làm một. Đó là yếu
quyết của “nhất chỉ thiền”.
Nói cách khác, trong cái “thiền
một ngón tay” của thiền sư
Câu Chi, cả đất trời như thu
về một mối, thể hiện rõ
ràng sự bình đẳng của các
dị biệt. Đúng ra thì khái
niệm về bình đẳng và dị
biệt đều bị bỏ qua một bên.
Duy một ngón tay đưa lên tượng
trưng cho trạng thái “chỉ quản
vô tâm” là còn đó.
Thế nhưng nếu mỗi
người ai cũng đưa một ngón
tay lên thì thử hỏi chúng ta
sẽ cảm nhận được điều
gì? Phiền não chăng? Bồ đề
chăng? Tóm lại, chủ thể đưa
ngón tay lên chính là đầu
mối của vấn đề. Tự ngã
(chúng sinh) đưa ngón tay lên
thì không được.Tự ngã
vô tướng (Phật) đưa ngón
tay lên thì mới được xem là
“Phật tác Phật hành”
(hành động của Phật). Ấy
mới là yếu quyết về “thiền
một ngón” của Thiên Long.Thiền
sư Dôgen (Đạo Nguyên)[8]
gọi nó là cái
“diệu tu” (hành động cắt
đứt với những tranh cãi phàm
tục) của “bản chứng” (cái
tôi được chứng ngộ = Phật).
Đó là “chỉ quán hành”
của “ba la mật đa” (hoàn
thành), sự tự phát triển của
bát nhã (tâm tính bản thanh
tĩnh). “Uy nghi tức Phật pháp,
Tác pháp thị tôn chỉ”.
Trong trạng thái đó, mới thực
hiện được cái gọi là
“sinh hoạt thiền” với chủ
trương “bình thường tâm
thị đạo” (thiền trong cuộc
sống bằng cái tâm bình
thường).
Chú tiểu lúc đầu
nhại theo thiền sư, đến khi bị
chặt ngón tay rồi, mới đau đớn
cảm thấy trời đất chỉ là
một, đột nhiên quên mất tự
ngã, rơi thẳng vào giữa trạng
thái hư không, thế rồi con người
với cái ta xưa nay (bản lai tự
kỷ) nhìn thấy thầy mình đưa
một ngón tay lên (chân như), bèn
chợt hiểu ý nghĩa của thiền
một ngón tay.
[1]
Truyện này có trong Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục, chương
nói về Câu Chi.
[2]
Thiền tăng đời Đường,
học được “thiền một
ngón tay” từ hòa thượng
Thiên Long và nhận pháp tự
của ông. Không rõ tên họ,
năm sinh năm mất. Được nhắc
đến trong Tổ Đường Tập
và Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục. Có lẽ vì ông thường
niệm Câu Chi Quan Âm Đà La Ni
nên có tên ấy chăng?
[3]
Nếu ngộ được chỗ
đó thì mọi người, không
phân biệt ai, đều thành Phật
hết.
[4]
Có nghĩa là chơi xỏ,
làm cho không ngóc đầu lên
nổi.
[5]
Trong thần thoại Trung Quốc,
thần Cự Linh trong lúc khơi thông
sông Hoàng Hà cứu lụt đã
chẻ Hoa Sơn thành hai để dựng
thêm ngọn núi Thú Dương.
[6]
Không khó khăn.Lâm Tế
Lục có câu “Hoàng Bá
Phật pháp vô đa tử” (Phật
pháp của Hoàng Bá rất giản
dị).
[7]
Lâm Bô (967-1028), tự Hòa
Tĩnh, nhà thơ và ẩn sĩ đời
Bắc Tống, sống ở Cô Sơn,
Tây Hồ thuộc Hàng Châu, lấy
mai làm vợ, hạc làm con (mai thê
hạc tử).
[8]
Dôgen (Đạo Nguyên,
1200-1253) thiền sư Nhật Bản thời
Kamakura, hiệu Thừa Dương Đại
Sư, khai tổ phái Tào Động.
Vốn dòng dõi quí tộc, từng
sang nhà Tống học đạo tăng
Như Tĩnh. Có viết Chính Pháp
Nhãn Tạng và Vĩnh Hòa Quảng
Lục.
|