Tắc
số 1:
Con chó của Triệu Châu[1]
(Triệu
Châu cẩu tử).
趙州狗子
Bản tắc[2]
:
Nhân một người
học thiền hỏi: -Con chó có
Phật tính[3]
hay không? Hòa thượng
Triệu Châu đáp: -Không[4].
Bình xướng:
Vô Môn nói rằng:
Kẻ muốn tham thiền
trước tiên phải vượt qua
những ải chắn do các vị tổ
sư đặt ra. Người muốn ngộ
đạo một cách tuyệt diệu
bắt buộc trải qua giai đoạn triệt
để xóa sạch mọi ý thức.
Nếu không vượt nổi ải chắn
của tổ, không dẹp bỏ được
mọi ý thức thì còn giống
hồn phách phải nương tựa
cây cỏ [5].
Thế thì cửa ải của các
tổ [6]
là gì nào? Ở đây
nó chỉ là một chữ “Vô”
(Không) mà thôi, nhưng chính ra
đối với tông môn, đó
là một ải chắn vô cùng
quan trọng. Muốn dùng một cái
tên ngắn gọn thì gọi nó
là cái “Ải tên là Vô”
hay “Ải không cửa” của nhà
Thiền. Kẻ vượt được cái
ải chắn này rồi, chẳng những
có thể gặp gỡ hòa thượng
Triệu Châu, mắt trong mắt, mà
còn có thể kết nối lông
mi lông mày[7]
với chư vị tổ sư,
nhìn mọi vật bằng bằng con mắt
của tổ, nghe mọi tiếng bằng lỗ
tai của tổ. Có phải thống khoái
không?
Có ai muốn vượt
qua cái cửa ải kỳ diệu này
không? Nếu có thì hãy tổng
động viên ba trăm sáu mươi
lăm khớp xương cùng với tám
vạn bốn nghìn lỗ chân lông[8],
toàn thân tụ thành một “khối
nghi ngờ lớn”, rồi tham thiền
bằng một chữ Vô. Ngày cũng
như đêm không lúc nào quên
đặt vấn đề. Không nên
coi chữ Vô này trong cái nghĩa
“vô của hư vô” [9]
và cũng không nên
nên hiểu nó trong cái nghĩa “vô
của hữu vô”. Hãy làm như
mình đang ngậm một hòn thép
nóng bỏng ở trong miệng[10],
muốn khạc ra mà không khạc
được, muốn nuốt vào mà
nuốt không trôi. Rửa cho sạch
hết những kiến thức sai lầm và
giác ngộ giả dối đã có,
rồi cùng với thời gian, dần dần
tu luyện thuần thục, để cho thế
giới bên trong và bên ngoài
hợp nhất, không còn phân biệt
chúng được nữa. Điều
đó giống như gã câm nằm
mộng, chỉ một mình mình hiểu
được mà không thể thổ
lộ cùng ai. Đến khi thình lình
chữ Vô ấy nổ tung ra, nó sẽ
làm kinh thiên động địa, có
khí thế của kẻ đoạt được
đại đao của Quan Vân Trường,
gặp Phật thì giết Phật, gặp
tổ sư thì giết tổ sư[11].
Đứng bên bờ sinh tử mà
thong dong tự tại, ở chỗ nào
trong cõi lục đạo tứ sinh[12],
dù sanh về đâu hay trở thành
cái gì cũng thấy mình đang
rong chơi thanh thản.
Hỏi rằng tiếp thu chữ
Vô này bằng cách nào à?
Hãy dồn hết khí lực bình
sinh nghiền ngẫm cho đến khi sức
cùng lực kiệt, nếu nỗ lực
không chút gián đoạn thì
chỉ cần châm một mồi lửa
nhỏ trên Phật đàn đã
thấy được ánh sáng của
Phật pháp bừng tỏa tức khắc.
Tụng:
Bèn có lời tụng:
Cẩu tử Phật tính, Toàn
đề chính lệnh. Tài thiệp
hữu vô, Táng thân thất
mệnh.
狗
子 佛 性
全
提 正 令
才
涉
有
無
喪
身 失 命
(Phật tính của chó,
Đề tài chính đáng. Mới
bàn có, không, Đã toi thân
mạng).
Lược dịch lời bàn
của Giáo sư Akizuki Ryômin:
Công án trên chỉ ngắn
ngủi có mấy câu. Trong đó,
chữ “Phật tính” có nghĩa
là “bản tính của Phật”.
Nhiều người giải thích là
“khả năng thành Phật
trong tương lai” nhưng thế thì
không ổn. Bởi vì người tu
Thiền chỉ nhìn “cái bây
giờ, ở đây và chính mình”
(tức kim, thử xứ, tự kỷ). Câu
hỏi của người học thiền đó
chỉ hàm ý: “Thế bây giờ
tôi có phải là Phật hay
không?”.
Giáo chủ Thích Ca đã
ra tuyên ngôn “Nhất thiết chúng
sinh, tất hữu Phật tính” (Tất
cả chúng sinh đều có Phật
tính). Câu nói đó về sau
thành căn bản của tư tưởng
Phật giáo Đại Thừa. Thế
nhưng, người học thiền ở đây
đã đưa ra một câu hỏi
rất đứng đắn, có tính
cách tôn giáo và hiện sinh:
“Tôi đây cũng bình đẳng
với muôn loài súc sinh, thế
thì tôi có bản tính của
Phật không nào?”. Ý thức
được vấn đề như ông
ta là một điều quan trọng.
Suzuki Daisetsu, thầy tôi, gọi đó
là yếu tố tri thức trong việc
tham cứu công án và ông nhấn
mạnh đến yếu tố này. Ngày
nay ở các đạo tràng tu thiền,
người ta không có ý thức
về vấn đề mà chỉ theo chủ
tâm theo đòi một cách máy
móc.
Thiền sư Bankei (Bàn
Khuê)[13]
có nói như sau:
“Ví dụ có
người xuất gia mất tấm cà
sa, tìm cách nào cũng không
ra, cứ thế mà đi tìm, không
ngừng nghỉ một phút. Đó
là bởi vì ông ta có “mối
nghi” thực sự. Người thời
bây giờ vì thấy người xưa
từng nghi ngờ, cũng đâm nghi ngờ
theo. Đó chỉ là mối nghi bắt
chước chứ không phải mối
nghi thực sự. Cho nên họ sẽ
không bao giờ có ngày giác
ngộ. Bởi vì không mất gì
cả mà lại bảo là mất rồi
cố đi tìm.”
Khi nào công án chưa
trở thành vấn đề của chính
mình, kết cục nó chỉ là
chuyện học đòi bắt chước.
Ý thức được vấn đề
một cách nghiêm chỉnh mới là
chuyện trọng đại. Cổ nhân
nói “Kẻ đại nghi ắt sẽ
đại ngộ” là vì cớ
ấy.
Nhân đây, nói về
một chữ Vô (không) của thiền
sư Triệu Châu, nếu đọc trong
Triệu Châu Lục, rõ ràng là
thiền sư đã trả lời “không”
(Vô) để đối lại với
“có” (Hữu) mà thôi.
Nguyên điển chép thế này:
Có người học thiền
hỏi: Con chó cũng có Phật tính
chứ?
Sư đáp: Không đâu.
Người học thiền:
Trên từ chư Phật dưới tới
con kiến, ai ai cũng có Phật tính,
cớ sao con chó lại không?
Sư: Vì nó còn
vướng cái nghiệp (những vọng
tưởng phiền não như tích,
dục, tăng, ái)[14].
Chữ Vô về sau của
Triệu Châu (Triệu Châu Vô tự)
thành ra không phải là cái Vô
đối ứng với Hữu (hữu-vô-vô
hay tương-đối-vô) như trong
câu chuyện trên. Cắt mất phần
sau lời đối đáp của nguyên
điển, trong công án, nó được
hiểu là cái Vô tuyệt đối
(tuyệt-đối-vô). Công án
này có mục đích giúp
cho bản thân người tu hành thể
nghiệm được “cái Vô
của phương Đông”. Nó
không phải là cái Vô của
đời Đường, thời đại
Triệu Châu, mà là cái Vô
của đời Tống đến sau, tức
thời đại Ngũ Tổ Pháp Diễn!
Chính vào khoảng thời gian đó,
hình thức gọi là “công
án thiền” (khán thoại thiền)
mới được thành lập vững
vàng, cho nên công án về sau
còn được gọi là những
“ám hiệu mật lệnh” dưới
trướng Ngũ Tổ.
Ngày nay công án này
đã được hệ thống hóa
và dùng vào việc giáo dục.
Chúng ta là những người vốn
chỉ biết thế giới mình sống,
nghĩa là một thế giới có
ý thức “phân biệt”, trong
đó tự ngã là trung tâm,
giữa Tha và Ngã có một tương
quan đối lập. Trước tiên,
phần tắc (cổ tắc, công án)
giúp ta xác nhận bằng kinh nghiệm
của mình là dưới đáy
tận cùng của sự “phân
biệt” ấy có một thế giới
“bình đẳng”, “tha ngã
là một” (tự tha nhất như)
mà ta có thể biết đến khi
ở trong trạng thái vô ngã. Thử
đưa ra một ví dụ. Sở dĩ
“sắc” và “hình”
tồn tại được là vì
có “không gian” (bình đẳng)
chứ không thấy “không gian”
nào tồn tại nhờ có “sắc”
và “hình”. Từ khi có có
cái Vô của “không gian”
mới sinh ra cái Hữu có giới
hạn của “sắc và “hình”
vậy. Trong triết học của Nishida
(Kitarô)[15],
ông đã luận về mối tương
quan giữa “vật cá biệt”
(cá thể) và “vật nói
chung”, gọi chỗ đó là nơi
cái Vô tồn tại. Muốn hiểu
cái “Vô tuyệt đối”,
nơi trú ngụ của tất cả mọi
cá thể, thì không thể dùng
suy tư. Phải dựa vào thể nghiệm
trực tiếp mới bắt nắm được.
Đó là ý nghĩa của chữ
Vô trong công án.
Trong phần bình xướng,
thiền sư Vô Môn đã đưa
ra câu trả lời thích đáng
cho những ai muốn trải qua thể nghiệm
này. Trước tiên ông cho biết
người tu thiền phải vượt qua
cái ải của chữ Vô, sau đó
ông đánh giá cao công án
về chữ ấy. Trong phần cuối, ông
thuyết minh một cách thân ái
cách tham cứu chữ Vô như thế
nào. Trong đạo tràng của chúng
tôi, việc tụng đọc lời nói
và làm theo lời chỉ dạy của
ông là một điều ai cũng cố
gắng thực hiện.
Theo tôi, phần bình xướng
nói trên, nhất là đoạn
đầu, rất rõ, không cần
phải thuyết minh gì thêm cho dài
dòng. Phần thứ hai, Vô Môn bàn
về cách tham cứu chữ Vô (thì
cần phải nói thêm). Đó là
sự tổng động viên hồn xác,
kết thành “khối nghi ngờ lớn”
(nghi đoàn) rồi tham cứu chữ Vô
ngày đêm không nghỉ. Đừng
có hiểu theo lối nhị nguyên
(thiên kiến, dualism), cũng đừng
rơi vào chủ nghĩa hư vô
(đoạn kiến, nihilism). Tham cứu chữ
Vô đến độ cả mình
(chủ quan) lẫn công án (khách
quan) nhập làm một (đả thành
nhất phiến). Lúc tự ngã và
thế giới đều biến mất, chỉ
còn cái Vô mà thôi. Đó
là lúc đạt được trạng
thái chính định (tam muội) của
công án.Cái tâm phân biệt
của tự ngã sẽ hóa ra “không”,
chỉ còn lại mỗi cái vô
ngã (vô tâm), tiếp xúc được
với chốn gọi là “bình
đẳng”. Rồi nếu gặp được
cơ duyên gì, nó sẽ bất
chợt bùng nổ ra (mạc nhiên đả
phát), sinh ra sự thể long trời lở
đất. Người ngộ đạo sẽ
rứt bỏ được ràng buộc
của Phật, tổ, cha mẹ, thân
quyến, trở thành một “độc
tôn Phật”, chủ thể tự do
tự tại. Thể nghiệm cá nhân
ấy giống như cảnh gả câm
nằm mộng nhưng không kể lại
giấc mộng ấy cho ai được cả.
Đó là một thể nghiệm bằng
trực giác của người uống
nước, nóng hay lạnh chỉ có
mình biết (lãnh hàn tự tri).
Lúc
đó sẽ thoát khỏi mê lầm
của vòng luân hồi, có thể
rong chơi trong cõi trời đất. Khi
tự giác được cái tôi
vô ngã, vô tướng (vô vị
chân nhân) là đã thấy
được Phật tính của mình
(kiến tính) vậy.
[1]
Thiền tăng Triệu Châu
Tùng Thẩm (778-897), người đời
Đường, nối tiếp đạo
pháp của Nam Tuyền Phổ Nguyện
(748-834). Thọ 120 tuổi. Thụy hiệu
Chân Tế Đại Sư. Để lại
Triệu Châu Lục, Chân Tế Đại
Sư Ngữ Lục. Có tiểu truyện
trong Toàn Đường Văn và
Tống Cao Tăng Truyện, Tổ Đường
Tập, Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục.
[2]
Có thể dùng chữ Cử
(Đề tài đưa ra) thay cho Bản
Tắc.
[3]
Dịch chữ Phạn buddhata.
Cùng nghĩa với Như Lai Tạng,
Giác Tính.
[4]
Nguyên ý bảo là con
chó không có Phật tính. Tùng
Dung Lục lại chép một chuyện
khác nội dung giống như thế
nhưng trong đó câu trả lời
của Triệu Châu là “Có”.
[5]
Thời gian gọi là Trung Hữu,
hồn phách còn vất vưỡng,
chưa có chỗ đầu thai.
[6]
Các cổ tắc thoại đầu.
[7]
Chữ trong Đại Huệ Thư:
mi mao tương kết. Ý nói “quyện
làm một”.
[8]
Chữ trong Phụ Mẫu Ân
Trọng Kinh, nói đến trạng thái
con người thành hình trong bào
thai.
[9]
Trung tâm tư tưởng Lão
Trang
[10]
Ví dụ có chép trong
phần thị chúng của Lâm Tế
Lục.
[11]
Cách ví von của Lâm Tế
Lục. Để được giải
thoát để trở thành chủ
thể tự do tuyệt đối, phải
cắt bỏ mọi câu thúc dù
là Phật, La Hán, cha mẹ, thân
quyến.
[12]
Lục đạo: địa ngục,
ngạ quỉ, súc sinh, tu la, nhân gian,
thiên thượng. Tứ sinh: thai sinh, noãn
sinh, thấp sinh, hóa sinh.
[13]
Thiền sư Nhật Bản dòng
Lâm Tế, húy là Vĩnh Trác
(Yôtaku, 1622-1693). Đề xướng
“bất sinh thiền”. Thụy hiệu
Phật Trí Hoằng Tế Thiền Sư,
Đại Pháp Chính Nhãn Quốc
Sư.
[14]
Phải chăng ông muốn nói
nếu không gạt hết vọng tưởng
đang che lấp thì dù chó hay
người đều sẽ không thấy
Phật tính của mình (LND).
[15]
Nishida Kitaro (Tây Điền, Kỷ
Đa Lang, 1870-1945), triết gia Nhật, phối
hợp tư tưởng Thiền Tông và
triết học Đức để khai thác
lý luận về nơi chốn mà
cái Vô tồn tại. Cùng với
Suzuki Teitarô (Linh Mộc, Trinh Thái Lang,
tức Suzuki Daisetsu ) là một trong hai
triết gia Nhật Bản nghiên cứu
về tư tưởng Thiên Tông nổi
tiếng quốc tế.
|