Dẫn Nhập[*]
theo Nishimura Eshin
解説:西村恵信
Vô Môn Quan cùng với Bích
Nham Lục [1]
và Thung Dung Lục [2]
là một tập công án của
thiền tông đời Tống bên
Trung Quốc mà người trong hay ngoài
thiền môn đều biết đến.
Thiền sư Nam Tống tên Vô Môn
Huệ Khai (1183-1260) đã tuyển lựa
những trao đổi vấn đáp của
thiền gia từ trước đến thời
đó thành 48 tắc, tập hợp
trong một quyển sách giúp cho người
mới tu thiền có điểm tựa để
tiến lên trên con đường tìm
về giác ngộ.
Quá trình xuất hiện
của các ngữ lục
Thiền tông khai hoa vào thời Vãn
Đường bước qua Ngũ Đại,
thế nhưng các vị thiền sư
lỗi lạc thời ấy hoàn toàn
không thích đem hình thức sinh
hoạt thường nhật của mình
hay một hai câu nói mà mình
phát biểu trong một trường hợp
nào đó sao lục lại với chủ
ý làm mực thước cho người
đời sau. Cố định hóa chúng
thành những khái niệm là đi
ngược với tinh thần của thiền
tông vốn tự do khoáng đạt.
Dù vậy, sau khi các bậc tổ sư
ấy chết đi, đã thấy xuất
hiện những tín hành lục
do chư đệ tử ghi chép lại.
Chúng đã được truyền
lại một cách cẩn thận như
di sản tinh thần quí giá để
hiểu biết tôn chỉ của thiền
tông. Những sách gọi là ngữ
lục của các bậc tổ sư
đời Đường thường đơn
sơ, không tô chuốt. Môn đệ
họ cũng không hề phụ thêm
vào đó những lời bàn, cứ
thế mà họ truyền đi nên các
tác phẩm ấy vẫn thể hiện
được cách sống thô sơ
phác lậu và tràn đầy khí
phách của các ngài. Những Mã
Tổ Lục, Lâm Tế Lục, Động
Sơn Lục, Vân Môn Lục, Triệu
Châu Lục chính là những tập
ngữ lục thuộc loại này.
Song song với loại ngữ lục mà
chúng ta có thể xem như tư liệu
gốc để hiểu lịch sử thiền
tông, lại có một loại ngữ
lục khác, trong đó, người
tu thiền hạ bút viết lời phê
bình, ghi chép lại điều mình
giác ngộ được cũng như
nhằm kiểm chứng xem kiến thức đã
được truyền thụ từ thầy
sang trò hay chưa. Đó là sản
phẩm của thời Tống, giai đoạn
mà hầu hết các tôn phái
thiền Trung Quốc đã đến hồi
suy vi. Như chúng ta hẳn biết, từ
đời Tống trở đi, người
tu thiền đã phải nhận sự
bảo trợ từ bên ngoài của
tầng lớp sĩ đại phu, nhờ đó,
họ thành lập được những
cộng đồng sinh hoạt lớn có
tên là tùng lâm (tùng =
cụm, khóm, lâm = rừng, đây
có nghĩa là chùa thiền). Vì
lý do đó, những nhà tu thiền
đánh mất đi sức mạnh tôn
giáo, ngược lại, càng giao lưu
thâm sâu trong sinh hoạt với giới
sĩ đại phu chừng nào, họ lại
bị quí tộc hóa chừng nấy.
Tuy nhiên, dần dần, cũng nhờ sự
đóng góp của giới này mà
nền văn hóa thiền tông đã
thành hình. Các ngữ lục vào
giai đoạn này vì vậy có
cái đặc sắc là đậm đà
tính văn nghệ mà điển hình
là Bích Nham Lục và Thung Dung Lục.
Dĩ nhiên, những bậc thiền sư
đời Tống muốn cứu vãn cảnh
chùa thiền đang gặp hồi điêu
đứng, mới ra sức gạn đục
khơi trong, tạo ra các loại thanh
qui nghĩa là qui tắc tu hành và
qui chế sinh hoạt phải theo. Vào thời
này thấy xuất hiện nhiều tập
ngữ lục trình bày, đề cao
nghi thức tu tập và truyền thừa
thiền đăng của tông phái
mình. Thế nhưng, phải nói ngay
là loại sách vở này chỉ
lấy các ngữ lục và sử
truyện của thiền gia đời Đường
làm cơ sở nên thiếu độc
đáo.
Tuy vậy, nhờ những công phu sáng
ý xuất phát từ tinh thần hộ
pháp của các thiền sư đời
Tống mà cho đến ngày nay, dòng
thiền vẫn không cạn mạch. Ví
dụ phương pháp khán thoại
thiền tức là phương pháp
chỉ đạo để dẫn chư đệ
tử tới khai ngộ bằng cách dùng
những lời dạy dỗ của cổ
nhân (cổ tắc thoại đầu)
như tấm gương soi (giám)
chẳng hạn. Phương pháp này
xuất hiện vào đời Tống, đã
có công khởi tử hồi sinh hoạt
động của thiền môn. Công lao
ấy đáng được tán
dương. Cũng không thể bỏ qua
vai trò của nó đối với
việc gìn giữ và phát triển
thiền tông trong những giai đoạn
lịch sử kế tiếp.Một cuốn Vô
Môn Quan là di sản chung đúc nỗ
lực của thiền sư Vô Môn Huệ
Khai, lúc ấy đang đứng trước
những năm tháng quyết định
vận mệnh của thiền tông đời
Tống.
Người đã đem Vô Môn
Quan vào đất Nhật là một
vị tên gọi Pháp Đăng Viên
Minh Quốc Sư, Thiên Địa Phường
Vô Bản Giác Tâm (1207-1298) tu ở
chùa Hưng Quốc Tự ở Yura (tỉnh
Hyôgo, gần Kobe bây giờ). Ngài
Giác Tâm (Kakushin) tức Pháp Đăng
Quốc Sư (Hottô Kokushi) là một
thiền tăng Nhật Bản sống vào
buổi đầu thời Kamakura. Năm Kenchô
thứ 6 (1249), ông đã sang Tống,
có duyên gặp gỡ với không
ai khác hơn là thiền sư Vô
Môn Huệ Khai, người trước tác
Vô Môn Quan. Nhà sư Nhật Bản
được Huệ Khai truyền thụ
thiền pháp, sống bên Trung Quốc
cả thảy 6 năm, cho đến năm
1254 mới về lại Nhật.
Tác phẩm Vô Môn
Quan đã ra đời như thế nào?
Nếu căn cứ ngày tháng ghi ở
bài hậu tự ở cuối quyển Vô
Môn Quan viết năm Thiệu Định
nguyên niên (1228) thì sách này
đã được biên soạn xong
20 năm trước khi sư Giác Tâm
nhập Tống. Bài tự cho biết trong
năm 1228 này, Vô Môn Huệ Khai đã
đến tu hành trong vòng 3 tháng
nhân mùa an cư kiết hạ ở
chùa Long Tường ở vùng Đông
Gia thuộc tỉnh Giang Tô. Lúc ấy,
ông đã có cơ hội đem
những cổ tắc thoại đầu
mình thu thập được từ ngữ
lục của các thiền tăng xưa
nay để chỉ dẫn, giúp đỡ
các học tăng đang đến đó
nhập thất. Dần dần ông đã
chỉnh lý và nối kết lại
những bài nói chuyện trong mùa
an cư kiết hạ ấy thành 48 tắc,
lồng khung trong một quyển sách gọi
là Vô Môn Quan.
Cứ theo lời trình bày ở đầu
quyển sách thì Vô Môn Huệ
Khai đã ấn hành quyển sách
nhằm dịp thánh tiết (sinh nhật)
của hoàng đế Lý Tông[3]
tức là ngày mùng 5 tháng
giêng năm Thiệu Định thứ 2
(1229). Điều đó cho biết từ
lúc bản thảo hoàn thành cho
đến lúc in ra chỉ có 6 tháng,
nghĩa là hết sức nhanh chóng.
Ở cuối sách lại có chép
thêm những thiền châm tức
là những lời răn bảo người
tham thiền. Đến cuối mùa xuân
1230, Vô Môn Huệ Khai lại được
nhà sư trụ trì chùa Thụy
Nham ở Minh Châu (thuộc tỉnh Giang Tô)
tên là Vô Lượng Tôn Thọ
(soạn giả Nhập Chúng Nhật Dụng
Thanh Qui) mến phục tài đức, mời
đến làm thủ tòa để
giảng kinh. Nhân dịp này, ông đã
sử dụng Vô Môn Quan làm tư
liệu diễn giảng lần đầu
tiên. Để tạ ơn ông, nhà
sư Vô Lượng Tôn Thọ đã
viết thêm vào một lời tựa
nhan đề Hoàng Long Tam Quan. Sau đó,
có người tên Mạnh Củng[4]
(con của Tông Chính) tự là Phác
Ngọc, thụy là Trung Tương, hiệu
Vô Am Cư Sĩ, tiểu truyện được
ghi trong Tống Sử, quyển 472, đã
thêm lời bạt trong dịp in lại vào
mùa hạ năm Thuần Hựu thứ 5
(1245).
Vô Môn Quan hiện tại lưu hành
là bản in lần thứ ba, ở cuối
bản còn có thêm cả lời
bạt của An Vãn viết ở trang viện
cạnh Tây Hồ ở Hàng Châu
vào mùa hạ năm 1246. An Vãn,
con của Nhược Trùng, vốn tên
là Trịnh Thanh Chi, tự Đức
Nguyên, húy Trung Định, truyện có
ghi trong Tống Sử quyển 474. Còn người
biên tập lại Vô Môn Quan lần
thứ ba này tên gọi tham học tì
khưu (tăng sĩ tham gia học tập) Di
Diễn Tông Thiệu thì không rõ
là nhân vật thế nào. Có
thuyết cho là chính Huệ Khai, có
thuyết cho là hai môn đệ cùng
ký một tên ghép.
Đôi hàng về tác
giả Vô Môn Quan
Vô Môn Huệ Khai, nhân vật được
xem như tác giả Vô Môn Quan, là
ai? Trong các sách được thu thập
lại trong Vạn Tục Tạng như Vô
Môn Huệ Khai Hòa Thượng Ngữ
Lục (thượng hạ 2 quyển), Tục
Truyền Đăng Lục, quyển 35, Tăng
Tập Tục Truyền Đăng Lục, Ngũ
Đăng Hội Nguyên Tục Lược,
Ngũ Đăng Nghiêm Thống cũng như
Ngũ Đăng Toàn Thư quyển 53 thì
chi tiết cuộc đời của thiền
sư này tuy có đấy nhưng chỉ
được kể lại rất đơn
sơ.
Được biết Vô Môn Huệ
Khai ra đời năm Thuần Hy thứ 10
(1183) ở Lương Chữ, Hàng Châu
(tỉnh Chiết Giang) dưới triều
hoàng đế Hiếu Tông[5]
nhà Nam Tống. Cha họ Lương, mẹ
họ Tôn. Lớn lên xuất gia học
đạo với một vị thầy tên
Thiên Long Quăng, sau gửi thân ở
chùa Vạn Thọ ở Bình Giang
(thuộc Giang Tô), và được
Nguyệt Lâm Sư Quán (1143-1217) dạy
dỗ.
Nguyệt Lâm Sư Quán là tổ
sư thiền đời thứ 7 của phái
Dương Kỳ dòng Lâm Tế, hồi
mới 14 tuổi đã xuất gia trên
Tuyết Phong Sơn. Sau khi đã học
thiền với công án Triệu Châu
Cẩu Tử (Con chó của Triệu Châu,
tắc thứ 1 trong Vô Môn Quan), ngài
đến chùa Nhị Thánh ở Kinh
Nam và thụ giới vào năm 24 tuổi.
Sau lại đến học thiền với
Đại Hồng Tổ Chứng ở chùa
Tiến Phúc thuộc Nhiêu Châu (tỉnh
Giang Tây), chịu cực khổ 10 năm,
cuối cùng được ấn khả
và pháp tự, nói nôm na
là được thầy chấp nhận
trình độ và chọn để
nối nghiệp. Ngài sáu lần đi
mở đạo trường rao giảng thiền
học ở các chùa như Thánh
Nhân ở Ngô Môn, Vạn Thọ ở
Tô Châu, Ô Hồi ở Vũ Khang.
Đến năm Gia Định thứ 10 (1217)
thì thị tịch (chết) sau khi đã
trụ thế (sống trên đời) 75
năm.
Tương truyền khi Vô Môn Huệ
Khai đến học thiền với Nguyệt
Lâm, ông lại được thầy
trao cho công án “Con chó của
Triệu Châu” (Triệu Châu cẩu
tử) và đã mất 6 năm để
suy ngẫm mà vẫn không tìm ra ý
nghĩa thực sự của nó. Nghĩ
rằng nếu cứ tham thiền mà đầu
óc ở trong trạng thái chập chờn
thì sẽ làm hư căn tính nên
mỗi lần như thế, mới hăng hái
đẩy lui cơn buồn ngủ bằng
cách đi bộ dọc hiên chùa
và đập đầu vào cột
cho tỉnh người. Một hôm đang
cùng chúng tăng ngồi nghe ngài
Nguyệt Lâm giảng kinh, chợt có
tiếng trai cổ (trống báo giờ
cơm trưa). Sư nghe tiếng trống ấy
mà bỗng nhiên khai ngộ, mới viết
bài kệ đầu cơ (khai ngộ)
như sau:
Thanh thiên bạch nhật nhất thanh
lôi, Đại địa quần sinh
nhãn khoát khai. Vạn tượng
sâm la tề khể thủ, Tu Di bột
khiếu, vũ Tam Đài.
青 天 白 日 一 声 雷
大 地 郡 生 眼 豁 開
萬 象 森 羅 斉 稽 首
須 弥 勃[6] 跳 舞
三
台
(Ngày tạnh đâu
ngờ sấm lọt tai, Muôn loài mở
mắt có trừ ai. Trời đất
núi rừng đều cúi lạy, Tu
Di nhảy cỡn, múa Tam Đài)[7].
Ngày hôm sau, Vô Môn Huệ Khai
vào thất của Nguyệt Lâm để
báo về sự giác ngộ của
mình thì Nguyệt Lâm cất tiếng
chào ngay: “ Lúc thấy được
thần sẽ hết thấy quỉ”. Vô
Môn quát một tiếng và Nguyệt
Lâm cũng quát trả một tiếng.
Vô Môn lại quát thêm tiếng
nữa. Sau nhiều lần như vậy thì
ý khí thầy trò hợp nhất
với nhau và Vô Môn thu nạp được
thiền lý của Nguyệt Lâm.
Tiếp nhận pháp tự của thầy
xong và lúc Nguyệt Lâm thị tịch
đã được một năm (1218),
Vô Môn đến chùa Báo Quốc
trên núi An Cát để hoằng
đạo. Sau đó, ông lần lượt
dời lá tràng (cờ hiệu)
của mình đến các chùa
Thiên Ninh, Hoàng Long, Thúy Nham ở
Hàng Hưng (tỉnh Giang Tây), chùa
Phổ Tế ở Tiêu Sơn thuộc phủ
Trấn Giang (tỉnh Giang Tô), chùa Khai
Nguyên ở phủ Bình Giang, chùa
Bảo Ninh ở phủ Kiến Khang. Cuối
cùng, năm Thuần Hựu thứ 6 (1246),
ông đến được chùa Hộ
Quốc Nhân Vương. Cũng vào năm
này, An Vãn viết lời bạt cho Vô
Môn Quan.
Lúc vãn niên, thiền sư Vô
Môn Huệ Khai rời khỏi chùa Hộ
Quốc, sống trong am bên cạnh Tây
Hồ khoảng nửa năm nhưng môn
đệ đến học thiền càng
lúc càng đông. Ngày 28 tháng
3 năm Cảnh Định nguyên niên
(1260), biết mình sắp chết, Vô
Môn mới từ giã bạn bè
thâm giao. Khi được một người
tên Lý Trai Thừa Tướng hỏi
sẽ thị tịch ngày nào, ông
cho biết là “Phật sinh nhật
tiền” tức ngày mùng 7 tháng
4. Ngày mùng 1 tháng 4, ông nhờ
thợ xây tháp, đến ngày 7,
sau khi xem xét tháp đã hoàn
thành xong thì tự mình soạn
khởi khám ngữ, nhập tháp
ngữ và để lại di yết
như sau: “Hư không bất sinh. Hư
không bất diệt. Nếu chứng đắc
hư không. Với hư không là
một”. Trụ thế 78 năm.
Vô Môn Quan được
truyền bá ở Nhật như thế
nào?
Ngài Vô Bản Giác Tâm tức
Pháp Đăng Quốc Sư từ Nhật
nhập Tống xong, đi học thiền ở
nhiều nơi, đến ngày 28 tháng
2 năm Thuần Hựu nguyên niên
(1253), nhân lên núi Đại Mai làm
lễ trước linh tháp của thiền
sư Pháp Thường (752-839) thì tình
cờ tạo được kỳ duyên
hội ngộ với thiền sư Vô Môn.
Số là nơi đây, Giác Tâm
lại gặp tăng Nguyên Tâm (Genshin),
người bạn Nhật cùng học
thiền, được ông này cho biết
Vô Môn là một bậc thầy nổi
tiếng trong làng thiền. Ông mới
đến yết kiến Vô Môn lần
đầu vào tháng 9 năm đó
ở chùa Hộ Quốc, và chỉ
qua vài câu vấn đáp, đã
nhận được ấn khả. Sau đó
Giác Tâm ra đi và năm sau trở
lại chùa Hộ Quốc chào từ
giã Vô Môn để về nước.
Thiền sư Vô Môn đã tặng
Giác Tâm bức tranh vẽ ba người
là Đạt Ma cùng với Hàn
Sơn và Thập Đắc, hai kỳ tăng
đời Đường, một bức tự
họa chân dung mình, một cuốn ngữ
lục của Nguyệt Lâm Sư Quán
và một bản Vô Môn Quan mình
soạn ra.
Bản Vô Môn Quan thiền sư Giác
Tâm đem về nước năm 1254 là
bản trùng san lần thứ ba (1246) có
lời bạt của An Vãn lẫn lời
bàn về tắc thứ 49. Sau khi Giác
Tâm lên Kim Cương Tam Muội Viện
ở núi Koyasan (Cao Dã Sơn, gần
Kobe) thuyết giảng, được một
người hào mục địa phương
là Katsurayama Gorô mời về trụ
trì Tây Phương Tự (nay có
tên là Hưng Quốc Tự) ở vùng
Yura. Có lẽ vào thời điểm
này các môn nhân của người
đã sao chép lại nhiều lần
Vô Môn Quan.
Thế nhưng Vô Môn Quan được
in ra lần đầu ở Nhật vào
lúc nào? Theo Kawase Ichima trong khi nghiên
cứu về những bản in của các
chùa thiền Ngũ Sơn (Gozan) thì
thời điểm ấy là năm Chính
Ứng thứ 4 (1291) và tác giả đã
dựa vào lời ghi chép về việc
ấn hành các bản còn lưu
lại ở Đại Trung Viện chùa
Kiến Nhân (Kenninji): “Quyển sách
này là một cái chùy đập
lộ ra cốt tủy của Phật tổ,
mở toang con mắt cho chúng tăng, chưa
bao giờ được in ra ở nước
ta…”. Trong đó có nhắc
đến hai chữ “Chính Mão”
được hiểu là năm Chính
Ứng Tân Mão (năm thứ tư).
Hiện nay bản Vô Môn Quan đang
lưu hành ở Nhật và được
xem như bản gốc là bản in trong
niên hiệu Ôei (Ứng Vĩnh,
1394-1428) được giữ ở chùa
Kôenji (Quảng Viên, thuộc thị xã
Hachiôji gần Tôkyô). Theo lời ghi
chép trên đó của một người
tên gọi tì khưu Jôboku (Thường
Mục) thì sách được in lại
vào tháng chạp năm Ứng Vĩnh
Ất Dậu (1405) vì bản Chính Ứng
Tân Mão đã hư hao thất
thoát nhiều.Đó là cải bản
đã ra đời sau bản chính một
thế kỷ. Tiếp theo đó, còn
có các bản sao, chép, đề
xướng, giảng nghĩa của các
nhà tu thiền đời nay, tổng cộng
trên 60 loại khác nhau còn được
nhắc đến, mà vì khuôn khổ
bài viết không thể kê khai hết
được. Muốn biết xin tham khảo
“Tân Vựng Thiền Tịch Mục
Lục” (1962) ở Thư Viện Đại
Học Phật Giáo Komazawa (Tôkyô).
Đặc điểm của Vô
Môn Quan
Không biết ở Trung Quốc dưới
triều Tống, trong chốn thiền lâm,
Vô Môn Quan đã được
đánh giá như thế nào. Nói
đến con số những cổ tắc được
sử dụng thì chỉ chưa đầy
phân nửa[8]
nếu đem so sánh nó với hai tác
phẩm khác, đó là Chính
Pháp Nhãn Tạng của Đại
Huệ[9]
(1147) đã được trân trọng
từ một trăm năm trước hay Bích
Nham Lục của tăng Viên Ngộ góp
mặt chậm hơn khoảng bảy mươi
năm sau[10].
Hơn nữa nội dung của Vô Môn
Quan tỏ ra nghèo nàn nếu so sánh
về tính văn học và sự sâu
dày của Bích Nham Lục và Thung
Dung Lục. Cho nên ở một nước
câu nệ về truyền thống như
quê hương Trung Quốc của mình,
một tập sách mới như Vô Môn
Quan không dược đánh giá
cao. Thế nhưng Vô Môn Quan đã
được Pháp Đăng Quốc Sư
(Giác Tâm) đem về Nhật rất
sớm sủa và đó là dịp
may cho nó. Các thiền tăng Nhật
đồng thời sử dụng cả bộ
ba Vô Môn Quan, Bích Nham Lục và
Thung Dung Lục. Hơn thế nữa, hãy
còn một số lý do khác.
Trước tiên, Vô Môn Quan là
một tập công án có đặc
sắc của riêng nó. Ví dụ
như ngoài bốn tắc có tên
là Động Sơn Tam Cân (Tắc 18:
Ba cân tơ (gai) của Động Sơn),
Câu Chi Thụ Chỉ (Tắc 3: Câu Chi
giơ ngón tay), Nam Truyền Trảm Miêu
(Tắc 14: Nam Tuyền chém mèo), Ngoại
Đạo Vấn Phật (Tắc 32: Kẻ
ngoại đạo hỏi Phật), không
có tắc nào trùng phức với
các tắc trong số 100 được
dẫn ra trong Bích Nham Lục. Đối
với những người tu học đã
đến Long Tường Tự ở Đông
Gia để nhập thất thì Huệ
Khai đã xem bốn mươi tám tắc
của Vô Môn tuy là “dùng
công án của cổ nhân như
miếng ngói để gõ cửa, rồi
tùy cơ mà dẫn dắt người
muốn tìm hiểu” nhưng ông
lại không dựa vào những công
án truyền thống thấy trong Bích
Nham Lục mà ai nấy đều biết.
Thay vào, ông tuyển chọn theo kiến
thức của mình những công án
xuất phát từ các ngữ lục
của các bậc tổ sư, rồi thêm
lời bình và tụng của mình
cho từng công án một. Đó
là đặc điểm trước tiên
của Vô Môn Quan.
Những thoại đầu (đề
tài để bàn cãi) của 48
tắc được tuyển lựa này
không chỉ là những câu chuyện
rút ra từ Cảnh Đức Truyền
Đăng Lục (san hành năm 1004), một
tập sách cũ, nhưng còn lấy
từ tác phẩm lưu hành đương
thời là Ngũ Đăng Hội Nguyên
(1253) cũng như, cụ thể hơn, từ
Tùng Nguyên Tam Chuyển Ngữ (Tắc
20: Đại Lực Lượng Nhân, Đại
lực sĩ) của Tùng Nguyên Sùng
Nhạc (1132-1202), từ công án của
Nguyệt Am Thiện Quả (1079-1152) (Tắc 8:
Hề Trọng tạo xa, Hề Trọng chế
xe) hay từ công án của Hoặc Am
Sư Thể (1108-1179) (Tắc 4: Hồ tử
vô tu, Lão Hồ không râu). Như
thế, Huệ Khai cũng sử dụng chất
liệu mới mẻ, những thoại đầu
của người cùng thời với
mình. Qua đó, ta bắt gặp cái
phong cách muốn tiến thủ nơi Huệ
Khai.
Vô Môn Quan sớm được công
nhận là một tập công án
cũng là nhờ có sự can thiệp
của thiền sư Vô Lượng Tôn
Thọ của phái Đại Huệ, người
vốn là môn đồ từ cửa
Ngũ tổ Pháp Diễn nhưng ngày
xưa đã tách ra khỏi chi lưu
của Vô Môn Huệ Khai. Tôn Thọ
mời Vô Môn về chùa Thụy
Nham để thuyết giảng về Vô
Môn Quan, lúc đó vừa mới
in xong. Và để tỏ lòng cảm
ơn, ông ta đã viết một lời
bạt cuối sách với tựa đề
Hoàng Long Tam Quan để đánh giá
cao kiến thức của Vô Môn.
Thứ đến, phải để ý
đến tính cách không dụng
công của Vô Môn Quan. Nó không
phải là một tập công án
có màu sắc văn chương như
Bích Nham Lục và Tùng Dung Lục
mà đúng là một tập tài
liệu để học tập vì biết
đặt thẳng vấn đề. Về cả
hai mặt chất lẫn lượng, nó
đều rõ ràng gọn ghẽ, đúng
là tập ngữ lục mà người
tu thiền có thể bỏ túi mang
theo bên mình.
Đầu tiên, có lẽ phải có
một lý do nào đó để
nó chỉ gồm có 48 tắc nhưng
vì nó ngừng giữa chừng như
thế cho nên An Vãn mới thêm tắc
thứ 49 để tiến gần con số
may mắn (cát số) trong Kinh Dịch là
50 (đại diễn số). Tại sao tự
lúc đầu đã không có
50 tắc? Có thể đây cũng là
bằng chứng của tinh thần tự do
phóng khoáng nơi thiền sư Vô
Môn. Biết đâu ông chẳng nghĩ
rằng chỉ dùng 48 tắc là đủ,
không cần thêm vào hay bớt đi
một tắc nào cả.Mỗi tắc
trong sách lại được trình
bày chung một thứ tự đơn sơ:
bản tắc, bình xướng và
tụng. Phần tụng lúc ngắn, lúc
dài, rất tự do bôn phóng.
Hơn thế nữa, một đặc điểm
khác của Vô Môn Quan là chỉ
có một chữ Vô làm mô-típ
chung cho toàn thể cuốn sách. Ngay từ
tắc thứ nhất “Con chó của
Triệu Châu”, soạn giả đã
đề ra nguyên lý: “Chỉ lấy
một chữ Vô làm cửa ải duy
nhất cho tông môn. Khi đã hiểu
chữ Vô ấy rồi thì ải ấy
gọi “ải không cửa”. Chủ
trương này cho rằng toàn thể
yếu quyết của Thiền Tông chỉ
nằm ở mỗi một chữ Vô mà
thôi.
Công án “Con chó của Triệu
Châu” đã nổi tiếng từ
đời Ngũ Tổ Pháp Diễn ( ? –
1104). Chính trong ngữ lục của Pháp
Diễn (Ngũ Tổ Lục) cũng từng
nhắc đến. Chỉ một tắc “Con
chó của Triệu Châu” cũng đủ
sức chém đứt làm đôi
cái tâm mê lầm chỉ bám
vào sự tư lường phân biệt
cái có với cái không. Đến
thời thiền sư Đại Huệ Tông
Quả, trong Đại Huệ Phổ Giác
Thiền Sư Ngữ Lục, ông cũng đã
đề cao tính thực dụng của
công án này : “Chỉ cần
một chữ (Vô) thôi mà phá
tan được biết bao nhiêu ác
tri ác giác”.
Thầy của Vô Môn Huệ Khai là
Nguyệt Lâm Sư Quán thời trẻ
cũng nếm đủ cay đắng với
chữ Vô này. Chính Vô Môn
cũng mất 6 năm trời để tìm
hiểu chữ Vô trước khi ngâm
bài kệ để giải thoát tâm
thân như đã đề cập đến
bên trên. Trong Vô Môn Huệ Khai
Hòa Thượng Ngữ Lục, quyển
hạ, ông còn để lại bài
kệ ngũ ngôn tứ tuyệt mà chỉ
vỏn vẹn có 20 chữ Vô đặt
liên tiếp bên nhau, và cho rằng,
người hiểu được chữ Vô
rồi có thể “đứng bên
bờ sinh tử mà giữ được
đại tự tại”. Điều đó
cho thấy công án này có thể
dùng như một dụng cụ để
tự mình vứt bỏ những gì
đã lĩnh hội ở các cổ
tắc thoại đầu từ trước
đến nay. Có lẽ vì cớ ấy
cho nên Vô Môn đã đặt
công án “Con chó của Triệu
Châu” lên đầu cuốn sách
do ông biên soạn.
Vì cuốn Vô Môn Quan được
làm ra với mục đích tìm
lối giải thoát tuyệt đối
cho con người, cho nên nó đã
được các nhà tu thiền phái
Lâm Tế, vốn chủ trương dùng
tọa thiền để kiến tính ngộ
đạo, trân trọng một cách
đặc biệt. Nó vẫn tiếp tục
được dùng cho đến nay trong
các đạo tràng chuyên môn.
Trong quá trình đó, những
nhà trí thức thiền tông Nhật
Bản cận đại đã tìm ra
ý nghĩa hình nhi thượng học
của chữ Vô và tạo ra một
hệ thống triết học với khái
niệm “Vô Tuyệt Đối”[11],
mở rộng được một chân
trời mới chưa từng có cho lịch
sử tư tưởng thế giới. Do đó,
một lần nữa, Vô Môn Quan trở
thành dòng tư tưởng có
tính phổ quát ngay giữa thời
hiện đại. Ngày nay, Vô Môn
Quan đã được dịch ra kim văn
cũng như nhiều ngoại ngữ, lại
còn được chú giải khiến
cho ai nấy đều đọc được,
âu cũng tượng trưng phần nào
xu thế của thời đại.Theo xu thế
đó, lần dịch chú này,
chúng tôi (Nishimura Eshin) không muốn
bị câu thúc bởi những lối
giải thích đã thành khuôn
phép mà thử làm việc một
cách sáng tạo hơn tuy vẫn bỏ
ngỏ để người đi sau có
thể tiếp tục tiến xa hơn nữa.
Ngày 20
tháng 5 năm 1994.
[*]
Phân đoạn đều là
của người dịch. Đã loại
bớt nhiều chi tiết rườm rà.
[1]
Sách
10 quyển, theo lời tựa của Vô
Đảng, ra đời khoảng năm 1125,
trong đó thiền sư đời
Tống là Viên Ngộ Khắc Cần
(1063-1135) trình bày và gia thêm
lời bình giảng (thùy thị, bình
xướng, trứ ngữ) cho100 cổ tắc
(bách tắc tụng cổ) mà Tuyết
Đậu Trùng Hiển (980-1052) đã
tuyển chọn. Nguyên tựa đề :
Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư
Bích Nham Lục. Tác phẩm cơ sở
của dòng thiền Lâm Tế. Còn
gọi là Bích Nham Tập.
[2]
Xuất
hiện khoảng 100 năm sau (1224) Bích
Nham Lục. Là bảo điển của
tông Tào Động. Sách lúc
đầu do Thiên Đồng Giác Hòa
Thượng ( tức Hoằng Trí Chính
Giác, 1091-1257) theo dấu Tuyết Đậu
Trùng
Hiển, chọn lọc 100 công án nổi
tiếng viết tụng cổ làm ra Hoằng
Trí Tụng Cổ. Sau có thiền sư
Vạn Tùng Hành Tú (1166-1246), am
chủ Thung Dung Am gia bút những lời
thùy thị và bình luận, mới
trở thành Hoằng Trí Chính
Giác Thiền Sư Tụng Cổ Thung Dung
Am Lục, lược xưng Thung Dung Lục
(hay Thong Dong Lục).
[3]
Hoàng đế thứ 5 nhà
Nam Tống, dòng dõi Triệu Đức
Chiêu, con Thái Tổ Triệu Khuông
Dẫn.
[4]
Tướng nhà Tống, từng
có công đoạt thành Tương
Dương từ tay quân Mông Cổ.
[5]
Vua đời thứ 2 nhà Nam
Tống, dòng dõi Triệu Đức
Phương, con Thái Tổ Triệu Khuông
Dẫn.
[6]
Dùng tạm thay cho chữ “bột”
với bộ “túc” không có
trong bộ chữ của người dịch.
[7]
Núi Tu Di thì ai cũng biết
nhưng Tam Đài khó hiểu hơn.
Có lẽ là tam đài tinh (Thượng,
Trung, Hạ Đài), theo thiên văn
học Trung Quốc là ba ngôi sao bảo
vệ Tử Vi Tinh.
[8]
Trong khi Vô Môn Quan có 48
tắc thì hai tác phẩm kia dều
có 100 tắc.
[9]
Đây tác giả muốn
nói đến tập công án Trung
Quốc gồm 3 quyển do nhà sư đời
Tống là Đại Huệ Tông Cảo
ra đời năm 1147 (chứ không phải
tác phẩm cùng tên bằng tiếng
Nhật cùng tên của tăng Nhật
Bản Dôgen (Đạo Nguyên) do các
đệ tử ghi chép lời giảng
của thầy, hoàn tất vào khoảng
năm 1235-38)
[10]
Không hiểu tác giả tính
toán như thế nào. Theo Chân
Nguyên trong bản dịch sang Việt ngữ
Bích Nham Lục đăng
trên mạng, thiền sư Viên Ngộ
đã soạn nó giữa khoảng
1111 và 1115 ở Hồ Nam. Vậy thì
Bích Nham Lục cũng ra đời trước
Vô Môn Quan nhưng phải trên 100
năm và trước cả Chính Pháp
Nhãn Tạng. Cũng theo Chân Nguyên,
Bích Nham Lục xuất bản và lưu
hành ở Tứ Xuyên vào khoảng
năm 1300 tức sau Vô Môn Quan (viết
xong năm 1228 và in năm 1229) khoảng 70
năm.
[11]
Khác với cái Vô Tương
Đối, vốn đối lập với
cái Hữu . Xin xem thêm phần bình
luận về tắc thứ nhất “Triệu
Châu Cẩu Tử” (Con chó của
Triệu Châu).
05-05-09
|