|
e) Tác giả
và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất Xứ:
Shin Chokusen-shuu
(Tân Sắc Soạn Tập), thơ mùa
hạ, bài 192.
Tác Giả: Shuuni.i
Ietaka ( chức Tùng nhị vị Đằng
Nguyên Gia Long, 1158-1237). Ông làm quan
nhị phẩm và là con quan Gon
Chuunagon Mitsutaka (Quang Long). Cũng là một
soạn giả của Shin
Kokin-shuu. Học trò
Shunzei, tài được sánh ngang
Teika. Sau vì bệnh nên xuất gia.
Theo Shin Chokusen giải thích,
bài nay được viết ra ở hội
đề thơ bình phong nhân dịp
con gái chức Tiền-Quan Bạch là
Fujiwara no Michiie (Đằng Nguyên, Đạo
Gia) nhập cung Thiên Hoàng Go Horikawa vào
năm Kangi (Khoan Hỉ) nguyên niên
(1229-30). Hội “bình phong ca” là
một nghi thức đương thời,
được tổ chức khi có dịp
vui.
Bài này lấy hai bài
thơ, một từ thi tập Kokin Rokujô
( Hòa Ca Lục Thiếp, ra đời năm
905 hay 914), một từ thi tập Go-Shuui-shuu
(Hậu Thập Di Tập, 1086) làm thơ
gốc. Bài thơ trước vịnh
cảnh gió thổi trên sông, bài
sau nói về lá núi mùa hạ.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Cảnh trời chiều trên sông một
ngày cuối hạ, thấy dấu hiệu
mùa thu sắp đến.
Đây là quang cảnh Lễ
Tẩy Uế (nghi thức thần đạo)
mà tác giả nhìn thấy trên
sông. Nhà thơ cảm thấy hôm
đó là một chiều mùa hạ
thực sự khi nhìn cuộc lễ chứ
đối với thiên nhiên, gió
đã lao xao qua hàng cây sồi,
báo trước trời đất đang
giao mùa.
Nara-no-ogawa,
tên gọi con sông con dùng để
lấy nước tẩy uế, chảy qua
đền Kamo ở phía bắc Kyôto.
Theo phong tục Nhật Bản, khách hành
hương phải rửa tay và súc
miệng tẩy uế trước khi vào
nơi đền thần thiêng liêng.
Trong bài, đó là Minazukibarae,
một nghi thức rửa tội tổ chức
vào ngày 23 tháng 6 âm lịch
mỗi năm để được tha thứ
những gì đã sai phạm từ
hồi đầu năm. Nara vừa là
địa danh vừa là tên cây
楢dưu,
một loại sồi (oak) lá rụng vào
mùa thu nên có đặc tính
của một chữ đa nghĩa (người
dịch ra Hán ngữ gọi nó là
cây bao).
Kỹ thuật tu từ trong bài
này, như thế, ngoài honkadori còn
có kake-kotoba.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Lương Phong. 涼 風
Trận trận lương
phong xuy bao[1]
diệp, 陣 陣 涼 風 吹 枹 葉
Nhật mộ hà bàng
nghi thị thu. 日 暮 河 旁 疑 是 秋
Hốt kiến tẩy mộc[2]
tiểu hà trắc, 忽 見 洗 沐 小 河 側
Phương ngộ hạ
nhật vị toàn thâu. 方 悟 夏 日 未 全 収
[1]
Bao: giống cây
cao ra hoa vào mùa xuân, rụng lá
lúc trở lạnh,
[2]
Tẩy mộc: rửa
ráy gội đầu, ở đây
chỉ nghi lễ tẩy uế Minazugibarae
.
|
|
Anh dịch:
O’er Nara’s streamlet softly blow
The winds in the new dim twilight,
The Misogi, thereby set, show
That summer hath not yet gone quite.
(Dickins)
Lo! at Nara's brook
Evening comes, and rustling winds
Stir the oak-trees' leave;--
Not a sign of summer left
But the sacred bathing there.
(Mac Cauley)
|
|
Thiên nhiên không chạy
theo tờ lịch của con người. Trong
mùa hạ có mầm mống của
mùa thu, giống như tu sĩ Kenkô đã
nói rất đúng trong Tsurezuregusa
(Buồn Buồn Phóng Bút, đoạn
155), tập tùy bút của ông:
« Sự chuyển biến của
thời tiết không phải hết xuân
là đến hè, hết hè lại
sang thu đâu. Ngay đang xuân đã
thấp thoáng bóng mùa hè,
trong mùa hè đã thấy chen vào
phong vị của ngày thu. Sau đó,
trời thu chẳng mấy chốc mà trở
lạnh, nhưng giữa cái ấm áp
bất chợt của tiết tiểu xuân
giữa tháng mười (âm lịch),
cỏ lại xanh ra và đầu cành
mơ chớm một vài nụ. Đến
khi cây rụng lá cũng vậy. Không
phải cây kia đợi cho lá vàng
rụng hết rồi mới đâm chồi.
Khi mầm non vừa nhú, lá cũ
không chịu nổi sự thúc bách
nên đã phải lìa cành.Bên
trong thân cây đã có sẵn
một luồng sinh khí để chuẩn
bị cho sự biến hóa đó nên
quá trình thay lá đã diễn
ra hết sức nhanh ».
(Đoạn 155: Muốn sống thuận
theo dòng đời)
|
|