Bài số :  96

Thơ Tiền Thái Chính Đại Thần đã xuất gia 入道前太政大臣

 

a) Nguyên văn:

花さそふ

嵐の庭の

雪ならで

ふりゆくものは

わが身なりけり

b) Phiên âm:

Hana sasou

Arashi no niwa no

Yuki nara de

Furiyuku mono wa

Wa ga mi nari keri

c) Diễn ý:

Gió mạnh thổi trong sân như rủ rê hoa rụng,

Hoa rơi chẳng khác tuyết rơi.

Nhưng nghĩ lại, hoa không phải là tuyết,

Nó chính là cái thân già đang tàn tạ của ta đây thôi.

d) Dịch thơ:

Gió mạnh xua hoa rụng,
Hoa rơi, ngỡ tuyết rơi.
Nhưng hoa nào phải tuyết,
Chính thân tàn này thôi.

(ngũ ngôn) 

Gió xua hoa rụng bời bời,
Hoa kia là tuyết hay đời già nua.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ: Shin Chokusen (Tân Sắc Soạn Tập), tạp thi, bài 1052.

Tác Giả: Nyudô Saki Daijô Daijin (Nhập Đạo Tiền Thái Chính Đại Thần) chỉ Fujiwara Kintsune (Đằng Nguyên, Công Kinh, 1171-1244). Sau cuộc loạn năm Jôkyuu (1221), cánh các Thiên Hoàng Go Toba (tác giả bài 99), Tsuchimikado và Sutoku (bài 100) thất bại, nhờ bí mật đi theo Mạc Phủ (lấy cháu gái Tướng Quân Yoritomo), ông được vinh hiển trên hoạn lộ. Là em vợ của Teika nên cũng là người bảo hộ cho ông này.

Shin Chokusen-shuu xếp bài này vào loại thơ vịnh hoa rơi.Tác giả nhìn hoa anh đào bay tán loạn trong khu dinh cơ tráng lệ, cảm cảnh cuộc đời vô thường, vinh hoa phú quí không bền, than cho tuổi già của chính mình.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Nhìn cảnh gió thổi hoa bay tán loạn, cảm khái cho tuổi già.

Trong hoan lạc đã có nỗi buồn. Cảnh hoa bay trong khu vườn của dinh thự tráng lệ ngưng tụ ở mấy chữ Arashi no niwa (khu vườn giông gió). Khi ví hoa với tuyết, có thể ông đã lập mối tương quan giữa hoa rụng và điệu vũ có tên là Phong Xuy Tuyết hay “gió thổi tuyết bay”, tạo được một ấn tượng đẹp đẽ và mạnh mẽ.

Chữ furuyuku trong furuyuku mono wakake-kotoba (chữ đa nghĩa) vì hiểu được theo hai cách, một như tuyết rụng, hoa rơi降るゆくvà một để chỉ tuổi già đến 古るゆくkhi được viết dưới hai tự dạng khác nhau.

Tác giả sử dụng phép nhân cách hóa hay gijinhô (gió mời mọc hoa), giả tá hay mitate (hoa rụng giống như tuyết).

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Thôi Hoa Phong Vũ.
催 花 風 雨

 

Thôi hoa phong vũ thôi hoa lạc,
催 花 風 雨 催 花 落

Hoa lạc đình tiền phân như tuyết.
花 落 庭 前 紛 如 雪

Lạc khứ, phương hoa qui khứ xuân,
落 去 芳 花 帰 去 春

Như ngã phiêu linh tâm thê trắc[1].
如 我 飄 零 心 凄 惻


[1] Thê trắc: buồn ngậm ngùi.

 

Anh dịch:

The court with Sakura’s flower is strewn

As thick as though the drifted snow

Did thereon lay: and I too saw

As withered low shall lie ‘neath blow

Of man’s inevitable foe.

(Dickins)

Not the snow of flowers,

That the hurrying wild-wind drags

Round the garden court,

Is it that here, withering, falls:--

That in truth is I, myself.

(Mac Cauley)

Phủ đệ và viên đình đẹp đẽ của Kintsune ở Kitayama về sau sang tay nhiều chủ mới cho đến khi tướng quân Ashikaga Yoshimitsu biến nó thành Kim Các Tự nổi tiếng. Ngoài ra, Hattori Ransetsu (1654-1707), cao đồ của Bashô cũng lấy tên hiệu của mình (Ransetsu = lam tuyết = cơn bão tuyết trên núi) từ bài thơ này.

 

 





Bài số :  96

Thơ Tiền Thái Chính Đại Thần đã xuất gia 入道前太政大臣

 

a) Nguyên văn:

花さそふ

嵐の庭の

雪ならで

ふりゆくものは

わが身なりけり

b) Phiên âm:

Hana sasou

Arashi no niwa no

Yuki nara de

Furiyuku mono wa

Wa ga mi nari keri

c) Diễn ý:

Gió mạnh thổi trong sân như rủ rê hoa rụng,

Hoa rơi chẳng khác tuyết rơi.

Nhưng nghĩ lại, hoa không phải là tuyết,

Nó chính là cái thân già đang tàn tạ của ta đây thôi.

d) Dịch thơ:

Gió mạnh xua hoa rụng,
Hoa rơi, ngỡ tuyết rơi.
Nhưng hoa nào phải tuyết,
Chính thân tàn này thôi.

(ngũ ngôn) 

Gió xua hoa rụng bời bời,
Hoa kia là tuyết hay đời già nua.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ: Shin Chokusen (Tân Sắc Soạn Tập), tạp thi, bài 1052.

Tác Giả: Nyudô Saki Daijô Daijin (Nhập Đạo Tiền Thái Chính Đại Thần) chỉ Fujiwara Kintsune (Đằng Nguyên, Công Kinh, 1171-1244). Sau cuộc loạn năm Jôkyuu (1221), cánh các Thiên Hoàng Go Toba (tác giả bài 99), Tsuchimikado và Sutoku (bài 100) thất bại, nhờ bí mật đi theo Mạc Phủ (lấy cháu gái Tướng Quân Yoritomo), ông được vinh hiển trên hoạn lộ. Là em vợ của Teika nên cũng là người bảo hộ cho ông này.

Shin Chokusen-shuu xếp bài này vào loại thơ vịnh hoa rơi.Tác giả nhìn hoa anh đào bay tán loạn trong khu dinh cơ tráng lệ, cảm cảnh cuộc đời vô thường, vinh hoa phú quí không bền, than cho tuổi già của chính mình.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Nhìn cảnh gió thổi hoa bay tán loạn, cảm khái cho tuổi già.

Trong hoan lạc đã có nỗi buồn. Cảnh hoa bay trong khu vườn của dinh thự tráng lệ ngưng tụ ở mấy chữ Arashi no niwa (khu vườn giông gió). Khi ví hoa với tuyết, có thể ông đã lập mối tương quan giữa hoa rụng và điệu vũ có tên là Phong Xuy Tuyết hay “gió thổi tuyết bay”, tạo được một ấn tượng đẹp đẽ và mạnh mẽ.

Chữ furuyuku trong furuyuku mono wakake-kotoba (chữ đa nghĩa) vì hiểu được theo hai cách, một như tuyết rụng, hoa rơi降るゆくvà một để chỉ tuổi già đến 古るゆくkhi được viết dưới hai tự dạng khác nhau.

Tác giả sử dụng phép nhân cách hóa hay gijinhô (gió mời mọc hoa), giả tá hay mitate (hoa rụng giống như tuyết).

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Thôi Hoa Phong Vũ.
催 花 風 雨

 

Thôi hoa phong vũ thôi hoa lạc,
催 花 風 雨 催 花 落

Hoa lạc đình tiền phân như tuyết.
花 落 庭 前 紛 如 雪

Lạc khứ, phương hoa qui khứ xuân,
落 去 芳 花 帰 去 春

Như ngã phiêu linh tâm thê trắc[1].
如 我 飄 零 心 凄 惻


[1] Thê trắc: buồn ngậm ngùi.

 

Anh dịch:

The court with Sakura’s flower is strewn

As thick as though the drifted snow

Did thereon lay: and I too saw

As withered low shall lie ‘neath blow

Of man’s inevitable foe.

(Dickins)

Not the snow of flowers,

That the hurrying wild-wind drags

Round the garden court,

Is it that here, withering, falls:--

That in truth is I, myself.

(Mac Cauley)

Phủ đệ và viên đình đẹp đẽ của Kintsune ở Kitayama về sau sang tay nhiều chủ mới cho đến khi tướng quân Ashikaga Yoshimitsu biến nó thành Kim Các Tự nổi tiếng. Ngoài ra, Hattori Ransetsu (1654-1707), cao đồ của Bashô cũng lấy tên hiệu của mình (Ransetsu = lam tuyết = cơn bão tuyết trên núi) từ bài thơ này.