|
e) Tác giả
và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất Xứ:
Shin Chokusen (Tân
Sắc Soạn Tập), tạp thi, bài
1052.
Tác Giả:
Nyudô Saki Daijô Daijin (Nhập Đạo
Tiền Thái Chính Đại Thần)
chỉ Fujiwara Kintsune (Đằng Nguyên,
Công Kinh, 1171-1244). Sau cuộc loạn năm
Jôkyuu (1221), cánh các Thiên Hoàng
Go Toba (tác giả bài 99), Tsuchimikado và
Sutoku (bài 100) thất bại, nhờ bí
mật đi theo Mạc Phủ (lấy cháu
gái Tướng Quân Yoritomo), ông
được vinh hiển trên hoạn lộ.
Là em vợ của Teika nên cũng là
người bảo hộ cho ông này.
Shin Chokusen-shuu xếp
bài này vào loại thơ vịnh
hoa rơi.Tác giả nhìn hoa anh đào
bay tán loạn trong khu dinh cơ tráng
lệ, cảm cảnh cuộc đời vô
thường, vinh hoa phú quí không
bền, than cho tuổi già của chính
mình.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Nhìn cảnh gió thổi hoa bay tán
loạn, cảm khái cho tuổi già.
Trong hoan lạc đã có
nỗi buồn. Cảnh hoa bay trong khu vườn
của dinh thự tráng lệ ngưng tụ
ở mấy chữ Arashi no niwa (khu vườn
giông gió). Khi ví hoa với tuyết,
có thể ông đã lập mối
tương quan giữa hoa rụng và điệu
vũ có tên là Phong Xuy Tuyết
hay “gió thổi tuyết bay”, tạo
được một ấn tượng đẹp
đẽ và mạnh mẽ.
Chữ furuyuku
trong furuyuku mono wa
là kake-kotoba
(chữ đa nghĩa) vì hiểu được
theo hai cách, một như tuyết rụng,
hoa rơi降るゆくvà
một để chỉ tuổi già đến
古るゆくkhi
được viết dưới hai tự
dạng khác nhau.
Tác giả sử dụng phép
nhân cách hóa hay gijinhô
(gió mời mọc hoa), giả tá
hay mitate (hoa rụng giống như
tuyết).
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Thôi Hoa Phong Vũ. 催 花 風 雨
Thôi hoa phong vũ thôi
hoa lạc, 催 花 風 雨 催 花 落
Hoa lạc đình tiền
phân như tuyết. 花 落 庭 前 紛 如 雪
Lạc khứ, phương
hoa qui khứ xuân, 落 去 芳 花 帰 去 春
Như ngã phiêu linh
tâm thê trắc[1]. 如 我 飄 零 心 凄 惻
[1]
Thê trắc: buồn ngậm ngùi.
|
|
Anh dịch:
The court with Sakura’s flower is strewn
As thick as though the drifted snow
Did thereon lay: and I too saw
As withered low shall lie ‘neath blow
Of man’s inevitable foe.
(Dickins)
Not the snow of flowers,
That the hurrying wild-wind drags
Round the garden court,
Is it that here, withering, falls:--
That in truth is I, myself.
(Mac Cauley)
|
|
Phủ đệ và viên
đình đẹp đẽ của
Kintsune ở Kitayama về sau sang tay nhiều
chủ mới cho đến khi tướng
quân Ashikaga Yoshimitsu biến nó thành
Kim Các Tự nổi tiếng. Ngoài
ra, Hattori Ransetsu (1654-1707), cao đồ của
Bashô cũng lấy tên hiệu của
mình (Ransetsu = lam tuyết = cơn bão
tuyết trên núi) từ bài thơ
này.
|
|