e) Tác
giả và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Senzai –shuu
(Thiên Tải Tập) thơ mùa hạ,
bài 161.
Tác giả:
Hậu–Tả Đại
Thần chùa Tokudaiji (Đức Đại
Tự) là tên kính xưng của
Fujiwara no Sanesada (Đằng Nguyên, Thực
Định, 1139-1191). Gọi là Hậu dĩ
nhiên vì có một ông Tiền.
Tên gắn liền với ngôi chùa
nơi ông xuất gia, lấy pháp danh
là Nyoen (Như Viên). Là con trai của
Hữu Đại Thần Kinyoshi (Công
Năng), vai anh em họ Teika. Ông giỏi âm
nhạc và ca hát, đặc biệt
loại Kagura, nhạc cho ca vũ trong dịp
tế lễ, hay Imayô, những khúc
hát tân thời lưu hành trong dân
gian hồi đó.
Người Nhật thời vương
triều rất nhạy cảm với thời
tiết. Khi vào hè, người nghe
được trước ai hết tiếng
cuốc đầu mùa (sơ âm
=hatsune) là kẻ được xem như
có trình độ và may mắn.
Do đó, nhiều người phải
thức khuya để canh tiếng chim. Đây
là bài thơ làm ra trong khoảnh
khắc bắt được tiếng cuốc
đầu tiên ấy.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Nhìn ra hướng cuốc
kêu chỉ thấy vầng trăng về
sáng.
Niềm vui nghe tiếng cuốc đầu
tiên tiếp theo là sự bàng
hoàng vì không thấy bóng chim
đâu cả. Trong hạnh phúc vừa
mới chớm đã thấy man mác
nỗi buồn mất mát.
“Hiểu Nguyệt Quách
Công”, ngâm vịnh kết hợp
vầng trăng về sáng (ariake no tsuki)
với chim cuốc (hototogisu) là một đề
tài thông dụng ở Nhật.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Quyên Đề. 鵑 啼
Thời văn đỗ
quyên đề, 時 聞 杜 鵑 啼
Vọng chi bất kiến
ảnh. 望 之 不 見 影
Chỉ hữu hiểu không
nguyệt, 只 有 暁 空 月
Do tại thiên biên
lãnh. 猶 在 天 辺 冷
|
|
Anh dịch:
I heard the Hototogisu cry
I searched throughout the echoing sky’
No Hototogisu could espy
The morning moon but met my eye.
(Dickins)
When I turned my
look Toward the place whence I had
heard Hototogisu,-- Lo! the only object
there Was the moon of early dawn.
(Mac Cauley)
|
|
Hototogisu có nhiều tên gọi
bằng chữ Hán: quách công, đỗ
quyên, thì điểu, tử qui, Thục
hồn, bất như qui, điền trường
điểu vv...là một loài chim “chủ
đề” của thơ waka tự
thời Vạn Diệp. Đó là một
giống chim di (wataridori) có lệ đẻ
trứng trong tổ chim khác nhờ nuôi
hộ. Thường được dịch ra
tiếng Việt là chim cuốc, loại
chim chiêu hồn, tiếc xuân, nhớ
nước đến mửa máu.
Ở Nhật, có nhà thơ
Masaoka Shiki (Chính Cương Tử
Qui) đã dùng nó như tên
hiệu. Ông có thời ốm ho ra máu.
Tiểu thuyết nhan đề Hototogisu
(Bất Tư Qui, 1898-99) của nhà văn
Tokutomi Roka (Đức Phú, Lô Hoa) với
nhân vật chính cũng bị lao ho ra
máu là một tác phẩm tiêu
biểu thời Meiji.
Chim Cuốc (Hototogisu)
[1]
Đáng lẽ không nên dịch vì
đây là tượng thanh của
tiếng chim kêu: Ho-to- to- gi-su.
|