e) Tác
giả và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất Xứ:
Senzai-shuu
(Thiên Tải Tập), thơ luyến ái,
phần 3, bài 802.
Tác Giả:
Taikenmon-in Horikawa là tên mượn để
gọi (yobina) bà con gái của Minamoto
no Akinaka (Nguyên, Hiển Trọng) môt
chức thần quan coi việc đền thần
đạo và nghi lễ. Bà theo hầu
Taikenmon-in (Đãi Hiền Môn Viện)
tức người mẹ đẻ của
Thái Thượng Hoàng Sutoku (Sùng
Đức Viện, tác giả bài
77). Sau khi mẹ nhà vua xuất gia bà
cũng đi tu luôn. Horikawa có lẽ
là tên chỗ ở của bà
trong thành Kyôto.
Bà là một nữ ca nhân
tiêu biểu của thời viện chính
tức là thời các thái thượng
hoàng về ở ẩn nhưng vẫn
giật giây chính trị.
Theo lời thuyết minh của
Senzai-shuu, đây cũng là một
trong những bài thơ thuộc Cửu An
Bách Thủ như các bài 77, 79 và
83, mà người đàn bà gửi
cho người yêu như một bài
hanka (thơ đáp lời) trong giờ
“chia áo”.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:Mái
tóc rối trong buổi sáng chia tay làm
lòng càng thêm bấn loạn vì
yêu.
Nagakaramu kokoro là
cụm từ nói lên lời hứa
trung thành của người đàn
ông, cùng lúc biểu hiện thái
độ bất an vì nghi ngờ (shirazu
=không biết) của người đàn
bà về lời khẳng định rằng
tình yêu của chàng sẽ không
hề thay đổi (giống như tâm
sự tác giả bài 54). Còn
Kurokami no midare,
qua hình ảnh rất nhục cảm của
mái tóc đen rối bời, diễn
tả tâm trạng chưa trở lại
bình thường của nàng sau giờ
ân ái. Mái tóc rối và
tâm hồn cũng rối: midare
(rối) được
hiểu với hai nghĩa đen và nghĩa
bóng. Các chữ kurokami
(tóc đen), nagakara
(dài, lâu dài) và midare
(rối) đều có quan hệ engo.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Quân Tâm Bất Biến
Phủ. 君 心 不 変 否
Năng phủ trường
kỳ bất biến tâm, 能 否 長 期 不 変 心
Kim nông tróc mô[1]
phí tư tầm. 今 儂 捉 撫 費 思 尋
Nông tâm loạn như
thần khởi phát[2], 儂 心 乱 如 晨 起 髪
Mãn phúc tân toan
ưu lự thâm. 満 腹 辛 酸 憂 慮 深
[1]
Tróc mô: mò mẫm bắt
được. [2]
Thần khởi phát: buổi sáng
vừa tỉnh ngủ.
|
|
Anh dịch:
I fear me thou wilt break the pact
Thou mad’st with me – thy love will pass
Away from me, whom thoughts distract,
As tangled as the unkempt mass
My ravel treeses show.
That o’er my waking pillow flow.
(Dickins)
If it be for aye
That he wills our love should last?
Ah! I do not know!
And this morn my anxious thoughts,
Like my black hair, are confused.
(Mac Cauley)
|
|
Đối với phụ nữ
thời Heian, mái tóc và tiếng
nói tiêu biểu cho sắc đẹp
của họ. Mái tóc đen, dài
và bóng mượt, xõa hết
tấm lưng, đã được ngâm
vịnh bởi rất nhiều thi nhân Nhật
Bản. Pháp sư Kenko cũng nhắc lại
điều này trong tập tùy bút
Tsurezure-gusa (Buồn Buồn Phóng Bút,
đoạn 9- Mái Tóc Đẹp) của
ông:
“Nơi người đàn
bà, mái tóc đẹp là cái
thu hút tia nhìn của đàn ông
hơn cả.... Cũng vì lý do đó
nên mới có truyền thuyết là
sợi dây thừng xe bằng lọn tóc
của người đàn bà có
thể cột được con voi khổng
lồ, mà ống tiêu đẽo từ
gỗ đôi guốc của người
đàn bà có thể làm cho
con nai mùa thu động tình đi tìm
nai cái lần đến gần”
Ngoài
bà Horikawa, ta còn thấy các bà
Izumi Shikibu và sau này Yosano Akiko
(1878-1942), là những nhà thơ nữ
nói về mái tóc như suối
nguồn tình yêu. Nhiều người
như Maruya Saiiichi cho rằng “tóc rối”
“mái tóc xô lệch”, “vuốt
tóc” là biểu tượng quan
hệ tính dục vì đàn bà
ngày xưa thường ngồi sau mành
tiếp khách, ngay cả không cho người
lạ thấy mái tóc của mình.
|