|
e) Tác giả
và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất Xứ:
Senzai-shuu
(Thiên Tải Tập), thơ luyến ái
phần 2, bài 708.
Tác Giả:
Minamoto no Toshiyori Ason (Nguyên, Tuấn Lại
Triều Thần, 1055-1129) hay Shunrai là con
trai thứ ba của quan Dainagon Tsunenobu (Đại
Nạp Ngôn Kinh Tín, tác giả bài
71), lại là cha của Pháp sư
Shun.e (Tuấn Huệ), tác giả bài
85, một thi hào thuộc thế hệ
sau. Toshiyori là người đã biên
soạn Kinyô-shuu (Kim
Diệp Tập). Ca phong mới mẽ trong trẻo
của ông ảnh hưởng nhiều đến
những nhà lý luận như Shunzei
(tức Fujiwara no Toshinari, Đằng Nguyên
Tuấn Thành), tác giả bài 83
và là cha của Teika. Chẳng những
thế, chính Teika trong Kindai
Shuka (Cận đại
tú ca), với chủ trương về
thơ thường khác với cha mình,
cũng không tiếc lời khen sự tinh
tế và sâu lắng của thơ
Toshiyori.
Lời thuyết minh trong Senzai-shuu
cho biết bài thơ đã làm
ra trong một hội thơ ở phủ đệ
Fujiwara no Toshitada (Đằng Nguyên Tuấn
Trung), ông nội của Teika, với chủ
đề “khấn nguyện thần linh
mà tình cũng không thành”.
Trong bài này, tác giả cho biết
đã khấn với Phật Quan Âm
nhưng người tình như cơn
giông núi vẫn lãnh đạm
không chịu ngưng thổi.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Than thở vì đã cầu xin ở
chùa Hatsuse mà tình vẫn không
toại nguyện.
Chữ quan trọng trong bài
thơ này là Hatsuse (Sơ Lại tức
“đầu nguồn nước”). Đây
là tên một ngôi chùa gần
Nara, nơi dân chúng Kyôto hay đến
tham bái vì nổi tiếng linh thiêng.
Tên chùa đọc là Hasedera
(Trường Cốc Tự), có thờ
Thập Nhất Diện Quan Âm, do đó
là nơi khấn khứa những vấn
đề liên quan đến các bà
các cô. Cầu xin ở đây còn
không được chắc phải chịu
thua, chỉ biết than thở vì buồn
khổ.
Chữ Ukari ở câu đầu
ý nói về tâm trạng khổ
sở của tác giả. Yamaoroshi là
cơn gió lạnh thổi mạnh kịch
liệt từ trên núi xuống, ví
với thái độ lãnh đạm
của người mình yêu. Ở đây
tác giả lại dùng thủ pháp
nhân cách hóa khi kêu goi “Hỡi
cơn giông núi kia ơi!”
(Yamaoroshi yo).
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Đối Ngã Phụ
Tình Nhân. 対 我 負 情 人
Kham hận đối ngã
phụ tình nhân, 堪 恨 対 我 負 情 人
Kháp tự[1]
sơn phong, lãnh ngã tâm. 恰 似 山 風 冷 我 心
Sơ Lại sơn phong xuy
dũ cấp[2], 初 瀬 山風 吹 愈 急
Tùng thử bất tái
kỳ Quan Âm. 従 此 不 再 祈 観 音
[1]
Kháp tự: chẳng khác nào. [2]
Dũ cấp: càng gấp.
|
|
Anh dịch:
As windy blasts down Hasse’s steep
In furious path impetuous sweep,
So rulely thou my suit dost slight,
And scorn thy lover’s hapless plight;
No more’ fore Hasse’s shrine
Will I ensuing prayer incline.
(Dickins)
I did not make prayer
(At the shrine of Mercy's God),
That the unkind one
Should become as pitiless
As the storms of Hase's hills.
(Mac Cauley)
|
|
|
|