|
e) Tác giả
và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Go-Shuui-shuu
(Hậu Thập Di Tập), thơ xuân phần
thượng, bài 120.
Tác Giả: Quan
Gon Chuunagon Masafusa (Quyền Trung Nạp Ngôn
Khuông Phòng) tức Ôe no Masafusa (Đại
Giang, Khuông Phòng, 1041-1111), con của
Narihira (Thành Hành), viện trưởng
Quốc Tử Giám, chắt của văn
chương bác sĩ Ôe no Masahira (Đại
Giang, Khuông Hành, 952-1012) và bà
Akazome Emon (tác giả bài 59). Ông
từng làm thủ hiến ở Dazaifu
trên đảo Kyuushuu. Bác học đa
tài, ông là gương mặt khởi
sắc trên văn đàn, để
lại nhiều tác phẩm giá trị
nói về cuộc sống đương
thời.
Gon Chuunagon
Masafusa
Theo lời bình trong Go-Shuui-shuu
thì vào dịp ở phủ đệ
quan Nội đại thần Fujiwara no Moromichi
(Đằng Nguyên Sư Đạo) có
hội thơ với đề tài “Dao
Vọng Sơn Anh” (Ngắm hoa đào
trên núi xa) nên Masafusa mới có
bài thơ nói về yamazakura (anh
đào núi, anh đào dại) như
thế này.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề Tài:
Phong cảnh hoa anh đào nở
trên ngọn núi xa.
Takasago ý
nói “chỗ cát đắp cao lên”
nên có nghĩa là núi, một
gối thơ ở vùng Harima (tỉnh
Hyôgo, gần Kobe) (đã thấy trong
bài 34 nói về cây tùng nghìn
năm). Onoe
có nghĩa là “trên đỉnh
núi”. Vẻ đẹp của hoa anh
đào dại mọc trên núi
thường bị sương ở vùng
ngoại vi (toyama) che khuất, do đó tác
giả xin sương xuân đừng dậy
lên ngáng mất tầm nhìn của
mình. Toyama
hay hayama
là vùng núi bên ngoài nơi
có người ở để đối
chọi với miyama
hay okuyama
là núi sâu, nơi hoa anh đào
dại đang nở. Còn kasumi
dùng để chỉ
sương lam vào tiết lập xuân
trong khi kiri
dùng để chỉ sương thu. Thi
nhân Heian phân biệt rất rõ
ràng những điểm này.
Bài thơ giống như một
bức tranh theo lối viễn cận, có
gần có xa. Ví sương xuân
như “kẻ” muốn ngáng tầm
mắt mình là sử dụng kỹ
thuật nhân cách hóa. Thơ tuy
mộc mạc nhưng vẽ lên được
một khung cảnh rộng lớn và tươi
tắn.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Phong Thượng Anh
Hoa. 峰 上 桜 花
Cao cao phong thượng
xứ, 高 高 峰 上 処
Anh khai sắc hương
giai. 桜 開 色 香 佳
Sơn lộc hà dữ
vụ, 山 麓 霞 与 霧
Thiết mạc[1]
đáng trụ[2]
hoa. 切 幕 攩 住 花
[1]
Thiết mạc: Chớ có, xin đừng. [2]
Đáng trụ: ngăn chặn. Chữ攩
(đảng,
đáng) dùng tạm để thay
cho đáng (bộ thủ 手
+
當đương)
không có trong bộ chữ của
người dịch).
|
|
Anh dịch:
The Sakura trees in plenty grow
On Takasago’s steep hill-side,
And now their crowded blossoms show;
O may no fogs their beauty hide,
No mists from hill-top rise,
To veil their radiance from our eyes.
(Dickins)
On that distant mount,
O'er the slope below the peak,
Cherries are in flower;--
May the mists of hither hills
Not arise to veil the scene
(Mac Cauley)
|
|
Nói về tài học của
Masafusa, có giai thoại cho rằng đại
tướng Minamoto no Yoshiie (Nguyên, Nghĩa
Gia, 1039-1106), người lập nhiều võ
công ở miền Đông và đã
xây dựng cơ nghiệp dòng họ
Minamoto, từng theo học binh pháp với
ông.
|
|