|
e) Tác giả
và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Shika-shuu
(Từ Hoa Tập), thơ Xuân, bài 29.
Tác giả: Ise
no Taifu (Y Thế Đại Phụ) là tên
một nữ quan sống hồi tiền bán
thế kỷ thứ 11. Bà là con gái
của chức chủ tế ở đền
thần Ise tên là Ônakatomi no
Sukechika (Đại Trung Thần, Phụ Thân)
nên được gọi theo chức vị
của cha như thông lệ thời ấy.
Bà là cháu của Ônakatomi no
Yoshinobu (Năng Tuyên, tác giả bài
49). Theo hầu hoàng hậu Shôshi
(Chương tử) của Thiên Hoàng
Ichijô (Nhất Điều), sau bà kết
hôn cùng quan trấn thủ vùng
Chikuzen tên Takashina no Narinobu (Cao Giai, Thành
Thuận). Thâm giao với các bà
Izumi Shikibu (tác giả bài 56) và
Sagami (bài 65). Trong Go-Shuui-shuu,
bà có 27 bài được chọn,
cùng với Izumi (67 bài) và Akazome
(31 bài), là những nhà thơ nữ
tiêu biểu thời ấy.
Minh họa thơ
Ise no Taifu
Theo lời thuyết minh trong
Shika-shuu, thời Thiên Hoàng Ichijô,
có lệ hàng năm các tăng
quan dâng hoa yaezakura (anh đào dày
tám lớp) của vùng cố đô
Nara (kinh đô Heijô), nhân đấy,
ở Kyôto (kinh đô Heian) có cuộc
vịnh hoa. Trong tập thơ riêng của
mình, bà Ise no Taifu có ghi lại
tường tận hoàn cảnh sáng
tác của bài thơ này. Theo đó,
việc nhận hoa người ta đem tiến
là phận sự của một nữ
quan đàn chị. Bà đã đảm
nhận chức này sau khi Murasaki Shikibu (tác
giả bài 57) rút lui, nhường
vinh dự ấy cho các đàn em hay
chữ.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Ca tụng cái đẹp của
hoa anh đào ở cố đô Nara
tương xứng với phong cảnh thái
bình thịnh trị đương thời.
Tuy là một bài thơ
có tính cách thù tạc nhưng
Ise no Taifu dã khéo léo dùng chữ
“bảy”
(na)
trong tên kinh đô Nara,
“tám
tầng” (yae)
và “chín
tầng” (kokonoe)
để liên kết thời xưa
(inishie) với đương thời (kyô).
Tám tầng còn có nghĩa bát
trùng lâu (gác 8 tầng) bên
chùa Tôdaji ở Nara trong khi chín
tầng là cung điện Heian hiện
tại. Qua vẻ đẹp cành anh đào,
tác giả ca tụng triều đại
thái bình đương thời. Chữ
kyô cũng
có hai nghĩa, vừa là 今日kyô
như hôm nay, vừa ám
chỉ 京kyô
(kinh) là kinh đô
Heian.
Yoshino, vùng núi non phía
nam Nara không xa Kyôto, từng là kinh
đô của 7 đời thiên hoàng
kéo dài 74 năm (710-784). Còn hoa
anh đào kép là một sản
vật vùng Nara nên có thể nói
là quí hiếm đối với người
Kyôto. Điều này, tu sĩ Kenko đã
nhắc đến trong đoạn 139 của
cuốn tùy bút Tsurezuregusa (Buồn
buồn phóng bút) của ông.
Tuy tác giả dùng chữ
nioi (hương) nhưng nên hiểu
ở đây là ...sắc (thưởng
ngoạn bằng thị giác) như qui ước
thi ca Nhật khi nói về hoa anh đào!
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Kim tích anh hoa. 今 昔 桜 花
Tích nhật Nại
Lương đô, 昔 日 奈 良 都
Bát trùng anh hoa
hảo, 八 重 桜 花 好
Kim nhật cửu trùng
cung, 今 日 九 重 宮
Hoa hương cánh liễu
nhiễu[1]. 花 香 更 繚 嬈
|
|
Anh dịch:
Of old Yahezak’ra lent
To Nara, capital of yore,
Its fragrancy, and now its scent
Hath spread over our Kononohe o’er.
(Dickins)
Eight-fold cherry flowers
That at Nara,--ancient seat
Of Our State,--have bloomed;--
In Our Nine-fold Palace court
Shed their sweet perfume today
(Mac Cauley)
|
|
Thơ cung đình, thù tạc
khó làm hơn thơ thường vì
phải tránh rơi vào sự giả
tạo hay xu phụ. Đời Đường
có Trương Duyệt hay làm thơ
chúc tụng nhưng cũng khó có
người qua mặt ông ta ông thể
loại ấy. Chưa kể là nếu
không có thơ cung đình Sơ
Đường, khó thể có động
cơ phát triển mạnh mẽ để
thành thơ Thịnh Đường về
sau.
Tương truyền, năm ấy,
khi đến dự và nghe thơ của
bà Ise, đại quyền thần
Michinaga, cha của hoàng hậu Shôshi,
đã không ngớt lời khen tặng
và “vạn nhân cảm thán,
cung trung cổ động”.
|
|