Bài số 48

Thơ Minamoto no Shigeyuki 源重之

 

a) Nguyên văn:

風をいたみ

岩うつ波の

おのれのみ

くだけてものを

思ふころかな

b) Phiên âm:

Kaze wo itami

Iwa utsu nami no

Onore nomi

Kudakete mono wo

Omou koro kana

c) Diễn ý:

Vì gió mạnh cho nên,

Ngọn sóng đập vào bờ đá vỡ tan tành.

Mà đá kia không hề lay chuyển.

Trong khi người ấy vẫn lạnh lùng,

Chỉ có mình ta buồn vì trái tim tan nát.

d) Dịch thơ:

Sóng đánh vào ghềnh đá,
Vỡ nát dưới cuồng phong.
Tim ta tan bọt sóng,
Người như đá lạnh lùng.

 (ngũ ngôn) 

Sóng đánh, đá cứ trơ ra
Người sao hờ hững, mình ta nát lòng.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shika-shuu (Từ Hoa Tập), thơ luyến ái phần thượng, bài 311.

Tác Giả: Minamoto no Shigeyuki (Nguyên, Trọng Chi, ? - 1000), dòng dõi Thiên Hoàng Seiwa (Thanh Hòa). Làm quan ở nhiều nơi hẻo lánh xa kinh đô, để lại dấu chân từ Mutsu ở Đông Bắc cho đến đảo Kyuushuu ở phía Nam, sau mất ở Mutsu. Có chân trong 36 ca tiên.

Lời thuyết minh trong Shika-shuu cho biết bài này nằm trong só 100 bài dâng lên Reizei-in (Thái Thượng Hoàng Lãnh Tuyền, 950-1011) hồi ngài vừa được tấn phong Đông Cung Thái Tử.

Đây là tiếng than não nuột mà người đàn ông thốt ra trước sự lãnh đạm đối với mối tình nồng cháy của mình.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Mối tình bất hạnh của mình làm cho cõi lòng tan nát như sóng đánh vào bờ đá.

Bài thơ này sử dụng nhiều kỹ xảo từ jo-kotoba (với hai câu đầu), qua kake-kotoba (chữ kudake nghĩa là “vỡ thành từng mảnh nhỏ” có thể dùng cho ngọn sóng lẫn dùng cho người), đến engo (giữa nami và kudake) nên tỏ ra quá dụng công đối với một bài thơ tình đáng lẽ ra phải trực tiếp và thanh thoát.

Tác giả ví thái độ của người mình yêu cứng rắn như ghềnh đá và ái tình của mình mạnh mẽ như ngọn sóng nhưng sóng va vào đá thì tất vỡ tan thôi. Bà Shirasu Masako cho rằng bài này nếu thật là của Shigeyuki thì nó chắc đã lấy cảm hứng từ một honka (thơ mẫu) của Ise no Go với nội dung không khác bao nhiêu.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Cấp Phong Xuy Lãng.
急 風 吹 波

 

Hạo hạo trường không phong xuy cấp,
浩 浩 長 空 風 吹 急

Phách ngạn lãng toái thiên vạn trích.
拍 岸 波 砕 天 万 滴

Ngã kim tâm toái dữ thử đồng,
我 今 心 砕 与 此 同

Vạn lự thiên tư bi vô dĩ[1].
万 慮 千 思 悲 無 已


[1] Bi vô dĩ : buồn không thôi.

Anh dịch:

From th’ pitiless rock are backwards flung

The wind urged floods in scattered spray.

With prayers from anguished heart-depth wrung,

I seek to make thee love’obey;

As spurns the rock

The waves, dost thou my passion mock.

(Dickins)

Like a driven wave,

Dashed by fierce winds on a rock,

So it is, alas!

Crushed and all alone am I;

Thinking over what has been.

(Mac Cauley)

 

 



Bài số 48

Thơ Minamoto no Shigeyuki 源重之

 

a) Nguyên văn:

風をいたみ

岩うつ波の

おのれのみ

くだけてものを

思ふころかな

b) Phiên âm:

Kaze wo itami

Iwa utsu nami no

Onore nomi

Kudakete mono wo

Omou koro kana

c) Diễn ý:

Vì gió mạnh cho nên,

Ngọn sóng đập vào bờ đá vỡ tan tành.

Mà đá kia không hề lay chuyển.

Trong khi người ấy vẫn lạnh lùng,

Chỉ có mình ta buồn vì trái tim tan nát.

d) Dịch thơ:

Sóng đánh vào ghềnh đá,
Vỡ nát dưới cuồng phong.
Tim ta tan bọt sóng,
Người như đá lạnh lùng.

 (ngũ ngôn) 

Sóng đánh, đá cứ trơ ra
Người sao hờ hững, mình ta nát lòng.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shika-shuu (Từ Hoa Tập), thơ luyến ái phần thượng, bài 311.

Tác Giả: Minamoto no Shigeyuki (Nguyên, Trọng Chi, ? - 1000), dòng dõi Thiên Hoàng Seiwa (Thanh Hòa). Làm quan ở nhiều nơi hẻo lánh xa kinh đô, để lại dấu chân từ Mutsu ở Đông Bắc cho đến đảo Kyuushuu ở phía Nam, sau mất ở Mutsu. Có chân trong 36 ca tiên.

Lời thuyết minh trong Shika-shuu cho biết bài này nằm trong só 100 bài dâng lên Reizei-in (Thái Thượng Hoàng Lãnh Tuyền, 950-1011) hồi ngài vừa được tấn phong Đông Cung Thái Tử.

Đây là tiếng than não nuột mà người đàn ông thốt ra trước sự lãnh đạm đối với mối tình nồng cháy của mình.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Mối tình bất hạnh của mình làm cho cõi lòng tan nát như sóng đánh vào bờ đá.

Bài thơ này sử dụng nhiều kỹ xảo từ jo-kotoba (với hai câu đầu), qua kake-kotoba (chữ kudake nghĩa là “vỡ thành từng mảnh nhỏ” có thể dùng cho ngọn sóng lẫn dùng cho người), đến engo (giữa nami và kudake) nên tỏ ra quá dụng công đối với một bài thơ tình đáng lẽ ra phải trực tiếp và thanh thoát.

Tác giả ví thái độ của người mình yêu cứng rắn như ghềnh đá và ái tình của mình mạnh mẽ như ngọn sóng nhưng sóng va vào đá thì tất vỡ tan thôi. Bà Shirasu Masako cho rằng bài này nếu thật là của Shigeyuki thì nó chắc đã lấy cảm hứng từ một honka (thơ mẫu) của Ise no Go với nội dung không khác bao nhiêu.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Cấp Phong Xuy Lãng.
急 風 吹 波

 

Hạo hạo trường không phong xuy cấp,
浩 浩 長 空 風 吹 急

Phách ngạn lãng toái thiên vạn trích.
拍 岸 波 砕 天 万 滴

Ngã kim tâm toái dữ thử đồng,
我 今 心 砕 与 此 同

Vạn lự thiên tư bi vô dĩ[1].
万 慮 千 思 悲 無 已


[1] Bi vô dĩ : buồn không thôi.

Anh dịch:

From th’ pitiless rock are backwards flung

The wind urged floods in scattered spray.

With prayers from anguished heart-depth wrung,

I seek to make thee love’obey;

As spurns the rock

The waves, dost thou my passion mock.

(Dickins)

Like a driven wave,

Dashed by fierce winds on a rock,

So it is, alas!

Crushed and all alone am I;

Thinking over what has been.

(Mac Cauley)