e) Tác
giả và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Shuui-shuu
(Thập Di Tập), thơ luyến ái,
phần 1, bài 678.
Tác Giả:
Fujiwara no Asatada (Đằng Nguyên, Triêu
Trung, 910-966) là con trai thứ năm của
của Sanjô Udaijin (quan hữu đại
thần dinh ở phường Sanjô, nội
thành Kyôto) Sadakata (Định Phương,
tác giả bài 25).Ông có tiếng
trong làng thơ vào tiền bán
thế kỷ thứ 10.
Lời thuyết minh trong tập
Shuui-shu cho biết bài 44 này đã
được làm ra trong một hội
bình thơ năm Tenryaku, cùng lúc
với bài 40 của Kanemori và bài
41 của Tadami. Tuy không phải là thơ
mô tả tình yêu nhưng là
một suy gẫm về bản chất của
ái tình.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Mong mỏi một cuộc hẹn
hò nên đâm ra oán người
và tủi thân.
Ý nói nếu không
có chuyện gặp gỡ, yêu đương
thì làm gì có việc oán
trách người, tủi phận mình.
Tác giả dùng phương pháp
反実仮想
“phản thực
giả tưởng” (việc đang có
thật nhưng giả sử nếu như
không có nó) hay 逆説
“nghịch thuyết”
(paradoxal) qua cách biểu hiện shinaku
wa ....mashi (thà không
như thế còn hơn) để nói
lên lòng mong mỏi một cuộc hẹn
hò (ôse) với người mình
yêu. Nó từa tựa như lối
viết của vương tử Ariwara no
Narihira trong bài thơ nổi tiếng:
Yo no naka ni Taete sakura
no Nakariseba Haru no kokoro wa Nodokekara mashi
(Cuộc đời nếu vắng
anh đào, Xuân về lòng đỡ
dạt dào vì xuân)
Nhà
biên tập Teika xếp nó vào chủ
đề “tình yêu sâu xa nhưng
không thể trở thành hiện thực”
trong tập Hyakunin-Isshu
này. Chữ Taete
trong cả hai bài nhấn mạnh nghĩa
phủ định (hoàn toàn không).
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Như nhược bất
tương phùng. 如 若 不 相 逢
Như nhược căn
bản bất tương phùng, 如 若 根 本 不 相 逢
Đa thiểu phiền não
tự nhiên không. 多 少 煩 悩 自 然 空
Bất tái oán hận
nhân băng lãnh, 不 再 怨 恨 人 氷 冷
Bất tất tàm quý[1]
dĩ vô năng. 不 必 慚 愧 已 無 能
|
|
Anh dịch:
To love, were it not human fate,
Them men their fellows would not shun,
Their very selves they would not hate,
As since love’s birth they’ve ever done.
(Dickins)
If a trysting time
There should never be at all,
I should not complain
For myself (oft left forlorn),
Or of her (in heartless mood).
(Mac Cauley)
|
|
Người viết nhớ lại
một câu thơ Việt, tình cờ
đã sử dụng cùng một thủ
pháp:
Nếu như đời không
sầu, Thì em đâu đẹp
nữa. Đôi đứa mình muôn
thuở, Không còn tương tư
nhau.
Bài
thơ này của Asatada (35 Au koto no) như
thể chung một dòng thơ với bài
trước của Atsutada (34 Ai mite no). Nữ
sĩ Shirasu Masako cho rằng, khi về già,
Teika chuộng Renga (liên ca tức thơ
liên tục do nhiều người hợp
soạn) hơn là Tanka (Waka ngắn).
Tiêu chuẩn chọn thơ của ông
thành ra cũng bị ảnh hưởng
của khuynh hướng thơ theo chủ đề.
Do đó, việc đọc Hyakunin Isshu
rời rạc từng bài hơn là
một toàn thể có khi làm cho
độc giả không thấy thâm ý
của nhà biên tập.
|