|
e) Tác
giả và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Shuui-shuu (Thập
Di Tập), thơ luyến ái phần 2,
bài 710.
Tác giả:
Quan Quyền Trung Nạp Ngôn Fujiwara no
Atsutada (Đằng Nguyên, Đôn Trung,
906-943) là công tử con thứ ba Tả
Đại Thần Tokihira (Thời Bình).
Nổi tiếng đẹp trai, phong vận,
giỏi về đàn tì bà (biwa)
ngang hàng với Minamoto no Hiromasa (Nguyên,
Bác Nhã), một nhạc sư đương
thời.Làm quan đến chức
Gon-Chuunagon (Quyền Trung Nạp Ngôn), tòng
tam phẩm. Do đó, còn được
gọi là Biwa no Chuunagon.
Bà Shirasu Masako cho biết mẹ
của Atsusada là con gái của Muneyana
(Đống Lương) tức người
con trai của vương tử đa tình
Ariwara no Narihira, nên Atsutada có thể
thừa hưởng dòng máu phong lưu
của gia đình bên mẹ. Bà
là môt mỹ nhân, nhà văn
Tanizaki Jun.ichirô đã dùng làm
người mẫu cho nhân vật tiểu
thuyết Shôshô Shigemoto no Haha
(Người mẹ của Tướng
Shigemoto).
Fujiwara no Atsutada
Sau khi có được
một dịp gặp gỡ lén lút
(逢う瀬ôse)
thường là qua đêm với người
yêu, tác giả tưởng như thế
lòng sẽ thanh thản ra, ai ngờ lại
càng thêm nhớ nhung đau khổ, hơn
cả khi chưa gặp. Chủ đích
của bài thơ là để ca ngợi
xúc cảm tuyệt đỉnh mà lần
hội ngộ đầu tiên đã
đem đến và so sánh hương
vị nỗi nhớ nhung ở hai thời điểm
trước và sau đó.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Sau khi gặp người yêu
được một lần đầu, lại
càng thêm nhớ nhung đau khổ.
Đây là bài thơ
nói về tình cảm người
trong cuộcvào sáng hôm sau cuộc
gặp gỡ (kinuginu). Kinuginu
vừa có thể viết với chữ
Hán 後朝hậu
triêu (sáng hôm sau), vừa viết
với chữ Hán 衣衣y
y (áo áo).
Y y ám chỉ cảnh hai người tình
nhân đêm trước xếp áo
để ngủ chung, sáng ra về phải
“chia áo” cho nhau mặc lại
trước khi ai về nhà nấy. Thơ
gọi là 後朝の歌kinuginu
no uta, tóm lại là
“thơ chia tay” mà người đàn
ông viết tặng người đàn
bà trước lúc giã từ.
Có thể vì một sự
tình gì khiến đôi tình
nhân không thể gặp lại lần
thứ hai nên lòng họ mới não
nuột đến thế. Mono wo omou thật
ra phải viết đầy đủ là
Koi no mono wo omou có nghĩa là
thương nhớ, tương tư.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Dữ quân tương
kiến hậu. 与 君 相 見 後
Dữ quân tương
kiến hậu, 与 君 相 見 後
Tâm uẩn[1]
vô hạn tình. 心 蘊 無 限 情
Nhược dữ tích
thời tỉ, 若 与 昔 日 比
Kim trọng, tích thời
khinh. 今 重 昔 日 軽
|
|
Anh dịch:
I went to meet thee, dearest maid,
And when I parted loth from thee,
Upon my soul such mis’ry weighed,
I mourned the love that burdened me:
O that my heart
Were still unvexed by lover’s smart!
(Dickins)
Having met my love,
Afterwards my passion was,
When I measured it
With the feeling of the past,
As, if then, I had not loved.
(Mac Cauley)
|
|
Atsutada chết lúc mới có
38 tuổi. Thời ấy, người ta tin
rằng cái chết ấy là hậu
quả của một sự báo oán.
Địch thủ trên chính trường
của Tokihira, cha ông, nhà thơ
Sugawara no Michizane (tác giả bài 24), bị
đày đi Dazaifu ở đảo
Kyuushuu, chết ở đó, đã
hiện hồn về “bắt” ông.
Chính trong thơ văn, ông cũng đã
tiên đoán là mình sẽ
chết sớm cũng như những người
trong giòng họ (theo quyển dã sử
Ôkagami).
|
|