e) Tác giả
và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Go-shuui-shuu
(Hậu Thập Di Tập), thơ luyến ái
phần 4, bài 770.
Tác giả:
Kiyohara Motosuke, một trong năm người
nổi tiếng làm việc ở Viện
Hòa Ca (Wadokoro). Họ có tên là
Nashitsubo no Gonin (Lê Hồ Ngũ Nhân) vì
sân công thự làm việc có
trồng nhiều cây lê. Motosuke có
công biên tập Gosen-shuu
(Hậu Tuyển Tập). Xuất thân trong
một gia đình văn học lớn,
ông gọi Kiyohara Fukayabu (tác giả
bài 36) bằng ông nội và là
cha đẻ của nữ sĩ tài hoa
Sei Shônagon (tác giả bài 62).
Lời thuyết minh trong tập
Go-Shuui-shuu cho biết tác giả viết
thay cho một người đàn ông
bị tình phụ. Bài thơ nhắc
lại tình cảm tương thân
tương ái, kỹ niệm đẹp,
lời thề nguyền thuở hai bên còn
gắn bó. Nhân đó người
đàn ông trong cuộc nói lên
mối hận lòng nhưng cũng cho biết
lòng mình hãy còn vương
vấn chưa thôi.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Bày tỏ mối hận
lòng với người đàn bà
đổi thay mà mình khó quên.
Chữ Chigiriki na (Lời thề
thốt thủy chung) đặt ở đầu
câu thứ nhất tạo ngay được
không khí căng thẳng cho toàn
bài. Bài thơ này chắc hẳn
đã khởi hứng từ bài waka
có từ xưa chép trong Kokin-shuu
( Đông ca, bài 1093), do những chàng
lính thú biên phòng (hay người
nói thay họ) làm ra như sau:
Kimi wo okite Adashigokoro wo Wa ga
motaba Sue no Matsuyama Nami mo koenamu
(Cho dù sóng vượt Núi
Tùng, Đâu vui duyên mới đem
lòng phụ em)
Ý nói chuyện phản
bội người yêu giống như
trường hợp sóng phủ lên
ngọn núi Sue no Matsuyama nghĩa là
chuyện khó có thể xảy ra và
mối tình của mình “cho dù
sông cạn đá mòn” vĩnh
cữu bất biến, bền vững hơn
cả thiên nhiên.
Chữ na
trong câu đầu là một trợ
từ bày tỏ sự cảm động.
かたみにKatami
ni, một phó từ
có nghĩa là tagai
ni (lẫn nhau) nhưng
có thể làm liên tưởng đến
形見katami
là “kỹ niệm”.
Núi 末の松山Sue
no Matsuyama (Mạt Tùng Sơn) – đúng
hơn là một dãi đất cao ven
biển có nhiều tùng và hay bị
sóng đánh tên gọi là
波打峠Namiuchitôge
(Đèo Sóng Đánh) - trong bài
thơ là một địa danh tỉnh
Miyagi, miền bắc nước Nhật, đã
trở thành một gối thơ
(uta-makura) danh tiếng. Ở chỗ này có
một ngôi đền thần cổ tên
là Sue no Matsuyama Jinja, chẳng hiểu có
liên quan gì đến việc thề
thốt hay không!
Kỹ
thuật dùng ở đây là phép
ngắt câu ở cuối câu thứ
nhất và phép nghịch đảo.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Minh Thệ. 盟 誓
Hải thệ sơn minh
lưỡng tâm tựu, 海 誓 山 盟 両 心 就
Đa tình lệ thấp thanh sam
tụ. 多 情 泪 湿 青 衫 袖
Tình tự Tùng Sơn cao thả
trường, 情 似 松 山 高 且 長
Phong lãng nan thôi tâm ỷ
cựu. 風 浪 難 催 心 依 旧
|
|
Anh dịch:
When last each other we embraced, A solemn vow of
faith we swore, And sealed it with the tears that
chased Down my cheeks our drench’d sleeves o’er
– That we our oath would fail to keep When
th’waves o’erleapt S’ye’s
pine-crown’d [1]steep.
(Dickins)
Have we not been pledged By the wringing of our
sleeves,-- Each for each in turn,-- That o'er Sue's
Mount of Pines Ocean waves shall never pass?
(Mac Cauley)
|
|
|