e) Tác
giả và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Kokinshuu (Cổ
kim tập) thơ mùa đông, bài
332.
Tác giả:
Sakanoue no Korenori (Phản Thượng,
Thị Tắc) sống cuối thế kỷ
thứ 9 sang đầu thế kỷ thứ
10. Ông là một nhà thơ tiêu
biểu thời Kokin. Là một học
giả, ông làm chức Dainaiki (Đại
Nội Ký), phụ trách việc ghi
chép các bản ký lục và
soạn sắc chiếu, công văn trong
triều. Về văn chương, được
đánh giá ngang hàng với Ki no
Tsurayuki (tác giả bài 35) và
Ôshikôchi Mitsune (tác giả bài
29). Ông còn có công soạn
chung Gosen-shuu (Hậu
Tuyển Tập).
Đối với người thời
Heian, Yoshino đồng nghĩa với tuyết,
hoa mơ và hoa anh đào. Ngày
nay, anh đào ở Yoshino nổi tiếng
hơn tuyết nhưng việc cho cảnh
tuyết rơi ở Yoshino là tuyệt vời
đã có từ lâu rồi. Trước
kia, nơi đây nhiều núi non, là
một vùng khuất nẻo, ít dấu
chân người và dược xem như
nơi để tu hành vào thời
tín ngưỡng về núi non (sơn
nhạc tín ngưỡng) còn phổ
biến.
Theo lời thuyết minh trong
Kokin-shuu, tác giả đã vịnh
cảnh Yoshino (Nara) trong khi đi phó nhậm
ở đất Yamato. Vẻ trắng tinh khôi
của tuyết trong ánh nắng ban mai làm
tác giả tưởng như có ánh
trăng tàn đang chiếu.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài: Vẻ
trắng tinh khôi của tuyết tụ lại
lúc trời hừng sáng.
Ví ánh trăng sáng
như là tuyết sương là theo
thủ pháp mitate (giả trang, giả
tá) thường thấy trong thơ chữ
Hán, cũng thường được
các nhà thơ thời Kokin sử dụng.
Trong Tĩnh Dạ Tứ của Lý
Bạch có hai câu đầu:
Sàng tiền khan nguyệt
quang, 床 前 看 月 光 Nghi
thị địa thượng sương. 疑 是 地 上 霜
(Trước giường nhìn
trăng sáng, Ngỡ mặt đất
sương giăng)
Ở đây, ngược
với nhà thơ họ Lý ví ánh
trăng với sương, tác giả so
sánh một vùng tuyết trắng với
màu trăng, và điều này có
tác dụng nhấn mạnh đến vẻ
u tịch, không dấu chân người
của chốn thâm sơn Yoshino. Trong thơ
nói về mùa đông, thường
người ta chỉ nói về cảnh u
ám hay buồn bã, ít có trường
hợp nào tươi mới như ở
đây. S. Yamada (xem tư liệu 17) bảo
phải hiểu đây là lớp tuyết
mới rắc lên awayuki
(淡雪đạm
tuyết) chứ không phải gôsetsu
(豪雪hào
tuyết), rơi nhiều và dày.
Danh
từ 白雪shirayuki
(bạch
tuyết) được đặt ở cuối
bài theo kỹ thuật taigendome
(hãm
cuối câu) cho ta thấy tuyết trắng
là yếu tố chủ của bài
thơ.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Lăng Thần[1]. 凌 晨
Nghi tự lăng thần
nguyệt, 疑 自 凌 晨 月
Lãnh lãnh phóng
hàn quang. 冷 冷 放 寒 光
Tịch tịch Cát Dã
lý, 寂 寂 吉 野 里
Nhất phiến bạch
tuyết lương. 一 片 白 雪 涼
|
|
Anh dịch:
Now clearly broke the dawning day,
Ariaka moon I thought to see –
The new-fallen snow that lay
Round Yoshino deceived me.
The whitened hillside seemed
As tho’ thereon the moonlight streamed.
(Dickins)
At the break of day,
Just as though the morning moon
Lightened the dim scene,
Yoshino's fair hamlet lay
In a haze of falling snow.
(Mac Cauley)
|
|
Sadanoue no Korenori có tiếng đá
cầu giỏi. Trong ngày hội đá
cầu năm Engi thứ năm (905) dưới
thời Thiên Hoàng Daigo, tương
truyền ông đã đá 205 lần
liên tục mà cầu không rơi
nên được vua khen và tặng
lụa.
|