|
e) Tác
giả và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ: Gosen-shuu
(Hậu Tuyển tập),
thơ luyến ái, phần thứ 3, bài
700.
Tác giả: Fujiwara
no Sadakata (Đằng Nguyên, Định
Phương, 873-932). Ông còn có tên
Sanjô Udaijin (Tam Điều Hữu đại
thần) vì ông là quan Hữu đại
thần có dinh ở phường Sanjô
trong thành Kyôto. Ông giỏi cả
thơ lẫn âm luật.
Theo lời giải thích trong
Gosen-shuu thì đây là một
mối tình dấu diếm, sợ người
ta biết và người đàn ông
trong cuộc muốn tìm cách rủ rê
người mình yêu ra đi , khuyên
phải giống như chòm lá cây
sanekazura (một loại mộc lan,
magnolia) trên Núi Gặp Gỡ (Ôsakayama)
vẫn quấn quít, vương vấn
với nhau. Thế nhưng lời mời mọc
này không nhận được tín
hiệu trả lời, có khi vì dù
có muốn, điều kiện khách
quan lại không cho phép, nên người
ấy buộc phải nhắc khéo nàng
( Na ni shi owaba, Ôsakayama no, Sanekazura = nếu
đúng như tên gọi như tên
núi thì chúng ta phải gặp và
ôm ấp nhau). Mối tình thầm kín
dường như đã trở thành
tuyệt vọng và người ấy
mong nàng sẽ hiểu cho nỗi khổ
mình mang trong lòng.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề Tài:
Âm thầm muốn tìm
gặp người yêu để tỏ
tình giống như chòm hoa mộc lan
hay quyện vào nhau.
Ngọn
núi có con Dốc Gặp Gỡ đã
thấy trong bài số 10 của nhà
thơ Semimaru. Ngọn núi này nằm
giữa hai vùng Ômi và Yamashiro gần
Kyôto. Thế nhưng “gặp nhau”
ở đây không đơn thuần
là gặp suông như trường hợp
của bài thơ trên nhưng có
nghĩa là “gặp và ngủ với
nhau”. Chòm lá giây leo sanekazura
(song thê = ở cạnh bên nhau) nếu
tách ra khỏi cụm từ vốn có
thêm âm共寝sane
nghĩa
là ngủ chung (cộng tẩm) và
đóng vai trò một chữ kakekotoba
(chữ đa nghĩa: tên hoa mộc lan +
ngủ chung), lại được dùng
như engo
(chữ liên hệ) với 逢うau
(gặp
gỡ) trong tên núi Ôsakayama (逢うAu
+ 坂saka
+ 山yama).(Có
sách viết với tự dạng khác:
相坂).
Ngoài ra chữ kuru
trong câu nói cũng hàm chứa hai
nghĩa: 来るlà
đến và 繰るlà
cuộn với nhau. Mogana
là một trợ từ đặt cuối
câu để nói lên nguyện
vọng.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Phùng Phản Sơn. 逢 坂 山
Sơn danh Phùng Phản
ý tương phùng, 山 名 逢 坂 意 相 逢
Thảo viết Song Thê
mỹ thả thanh 草 曰 双 棲 美 且 青
Đản nguyện năng
sấn[1]
nhân vị giác, 但 願 能 趁 人 未 覚
Khứ vãng quân xứ
tự[2]
thâm tình. 去 往 君 処 叙 深 情
[1]
Sấn: thừa thế, nhân lúc. [2]
Tự: trình bày, bày tỏ.
|
|
Anh dịch:
I
If thou’rt as fair rumour thee
Doth paint’ O deign my but to grace
And may thy path as secret be
To human eye as is the trace
Of Sanekads’ra’med
Osaka-yama’s forests hid!
(Dickins)
If thy name be true,
Trailing vine of "Meeting Hill,"
Is there not some way
Whereby, without ken of men,
I can draw thee to my side?
(Mac Cauley)
|
|
Tương truyền ngày xưa người
ta chắt nước lá giây leo
双棲草sanekazura
(song thê thảo) để làm dầu
bôi tóc cho đàn ông nên
nó còn được gọi là
mỹ nam thảo.
|
|