|
Hán dịch:
Sơn Phong Xuy Quá. 山 風 吹 過
Sơn phong phủ[1]
xuy quá, 山 風 甫 吹 過
Thu thâm thảo mộc
hoàng. 秋 深 草 木 黄
Tự kinh bạo phong
vũ, 自 驚 暴 風 雨
Chi diệp câu điêu
thương. 枝 葉 倶 凋 傷
Một trận giông núi
đủ báo mùa đông đến
khác nào khi một chiếc lá
ngô đồng rụng, thiên hạ
đều biết thu về. Cũng như
khi thấy cánh chim hồng bay gấp là
hay mùa thu hầu tàn.
Ngô đồng nhất
diệp lạc, 梧 桐 一 葉 落
Thiên hạ cộng tri
thu. 天 下 共 知 秋
Hàn hồng phi cấp
giác thu tận. 寒 鴻 飛 急 覚 秋 尽
Và có phải tác
giả muốn nói đến qui luật
của cuộc đời “cảnh mùa
đông cũng như tuổi già
không ai tránh khỏi” từng
được gợi ý trong một câu
thơ chữ Hán:
Duy hữu lão đáo
lão, 唯 有 老 到 老
Nhân sinh vô tị
xứ. 人 生 無 避 処
|
|
Anh dịch:
Now autumn’s gales, in various freak
On herb, on tree, destruction wreak,
And wildest roar
The guts that down from Mube[1]
Pour.
(Dickins)
Since 'tis by its breath
Autumn's leaves of grass and trees
Riven are and waste,--
Men may to the mountain wind
Fitly given the name, "The Wild."
(Mac Cauley)
[1]
Wilkins dịch như danh từ riêng
nhưng đây là một phó
từ với nghĩa “Thế thì”.
|
|