e) Tác giả
và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Kokin-shuu
(Cổ kim tập), phần Biệt Ly, bài
365.
Tác Giả:
Quan trung nạp ngôn ( tham nghị bậc
trung) Yukihira không ai khác hơn là
在原行平Ariwara
no Yukihira (Tại Nguyên, Hành Bình,
818-893), con của hoàng tử Abo (thân
vương A Bảo) và cháu nội
của 平城天皇Thiên
Hoàng Heizei (Bình Thành, 774-824). Ông
cũng là người anh khác mẹ
của nhà thơ và vương tử
đa tình在原業平Ariwara
no Narihira, nhân vật chính của
Truyện Ise
và được phỏng định là
tác giả của nó. Yukihira bị
đày đi Suma trong thời Thiên
Hoàng Montoku trị vì (850-858).
Đây là bài thơ
ghi lại cảnh chia tay lúc tác giả
lên đường phó nhậm chức
trấn thủ ở Inaba (thuộc tỉnh
Tottori bây giờ) vào khoảng năm
855. Tác giả bày tỏ lòng
quyến luyến, rời ra không rứt,
với người ở lại kinh đô.
f)
Thưởng ngoạn và
phẩm bình:
Đề tài:
Tỏ bày sự luyến
tiếc lúc chia tay để đi phó
nhậm ở địa phương,
Đầu tiên, bài thơ
nói về cuộc chia tay giữa hai người,
sau đến tả cảnh tượng vùng
Inaba đang diễn ra trong trí. Sau lại
trở về liên kết cảnh vật
với tâm tình của hai người.
Bố cục khá phức tạp nếu
không nắm được hai kakekotoba
(chữ đa nghĩa) chính. Đó là
inaba và matsu. Lợi dụng đặc
tính đồng âm dị nghĩa của
hai chữ này:
Inaba là
tên đất 因幡国
Inaba no kuni ,
tên ngọn núi稲葉山
Inabayama nhưng
cũng là inaba往なば
hay 去なばvới
nghĩa là “giả thử có ra
đi”. Matsu
là cây tùng 松,
còn hàm ý chờ đợi待つ.
Ý thứ nhất (tùng) được
sử dụng khi tả phong cảnh đẹp
đẽ nhiều tùng mọc của núi
Inaba, nơi mình đi phó nhậm (cho
dù Inaba có thể chỉ là một
tượng trưng chứ không cứ gì
phải đi đến đó). Ý
thứ hai (chờ đợi) để nhấn
mạnh rằng tình cảm muốn ở
lại kinh đô mạnh hơn tình
cảm muốn đi. Kakekotoba
thứ hai này (chung quanh chữ matsu)
rất phổ thông trong thơ waka.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Ly Biệt. 離 別
Biệt quân viễn phó
Nhân Phan Quốc, 別 君 遠 赴 因 幡 国
Tâm tự Đạo
Diệp Sơn đính tùng. 心 似 稲 葉 山 頂 松
Thiên biên nhược
văn quân tương đãi, 天 辺 若 聞 君 相 待
Tự[1]
đương tốc tốc tựu qui
trình. 自 当 速 速 就 帰 程
Câu thứ hai có
lẽ đã được Đàn
Khả đã dịch theo chủ trương
của một học giả Nhật Bản.
Ông ấy cho rằng người ra đi
lúc đó nhắn kẻ ở lại
là lòng mình cũng trung thành
bền bỉ với nàng như cây
tùng (Tuế hàn nhiên hậu tri
tùng bạch chi hậu điêu dã
– Luận Ngữ). Tiếng Nhật không
phân biệt giống và số nên
khó tìm ra một lối giải
thích thỏa đáng.
[1]
Chữ tự trong câu 2 có nghĩa
là giống như, ở câu 4 có
nghĩa là tự nguyện.
|
|
Anh dịch:
Inaba’s lofty range is crowned
By many a tall pine-tree;
Ah quickly were I homewards bound
If thou shouldst pine for me.
(Dickins)
Though we parted be;
If on Mount Inaba's peak
I should hear the sound
Of the pine trees growing there,
Back at once I'll make my way.
(Mac Cauley)
|
|
Tương truyền khi nhà
thơ Yukihira bị đày ra vùng biển
Suma, ông có quen và yêu hai chị
em người con gái thợ lặn. Cô
lớn tên Matsukaze (Tùng Phong = gió
tùng) và cô em là Murasame (Thôn
Vũ = Mưa rào). Trong tuồng Nô hãy
còn có một vở nhan đề
Matsukaze tức là “Ngọn gió
tùng”. Khúc hát chủ đề
của nó lại mang tên Tachiwakare
(Chia tay lên đường) như câu
đầu của bài thơ thứ 16 này.
|