|
e)
Tác giả và
hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Kokin-shuu (Cổ
kim tập), tạp thi, phần thượng,
bài số 872.
Tác Giả: Sôjô
Henjô (Tăng Chính Biến Chiếu,
816-890), tên ông còn viết là
Biến Chiêu遍昭.
Tục danh 良嶺宗貞Yoshimine
no Munesada (Lương Lĩnh Tông Trinh),
trước khi xuất gia là một cận
thần của Thiên Hoàng Ninmyô
(Nhân Minh, 810-850). Tương truyền ông
là người tướng mạo khôi
ngô và có tài thơ nên
được bổ nhiệm vào việc
tiếp sứ bộ đến từ Bột
Hải năm 849. Qua năm sau, Thiên Hoàng
băng, ông lên núi Hieizan, trở
thành đệ tử của tăng chính
慈恵Jike
(Từ Huệ) phái Thiên Thai. Sau ông
còn giữ chức tăng chính tức
tăng quan cấp cao nhất. Có lúc
ông tu ở Hoa Sơn Tự nên còn
được gọi là Hoa Sơn Tăng
Chính. Cũng là một trong Rokkasen
(Lục Ca Tiên).
Đương thời, những
cảnh ca múa với y phục hoa lệ,
trang trọng là thú vui của quí
tộc và cũng là một nghi thức
định kỳ trong cung. Có lẽ với
tư cách tăng quan cao cấp, lại
được thiên hoàng sủng ái,
Henjô đã chứng kiến những
buổi trình diễn như thế. Vì
cảm động trước vẻ đẹp
của các nữ vũ công trông
cung đình nên ví họ với
những nàng tiên nữ. Ông nhờ
gió thổi chắn lối mây làm
họ không về được thiên
cung để giữ thêm ít lâu
cái vẻ đẹp ấy cho trần
gian.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Vẻ đẹp của những
nàng vũ công trình diễn trong
lễ hội giống như tiên cô
trên thượng giới.
Chữ tsu dùng như no
cho nên Ama tsu kaze là gió
(của) trời. Trong bài này, tác
giả đã sử dụng thủ pháp
mitate (giả tá, giả trang), để
qua đó, thấy được người
tiên (ama tsu otome) trong hình dáng của
những nàng vũ công cung đình.
Người tiên vốn không ở lâu
trên cõi trần cũng như sau cuộc
trình diễn, các vũ công phải
ra về, để lại cho đám khán
giả niềm luyến tiếc. Shibashi
todomen có nghĩa là “hãy ở
lại thêm dù là một chút”.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Đại Phong. 大 風
Đại phong hạo hạo
khởi trường thiên, 大 風 浩 浩 起 長 天
Vân lộ qui đồ
tận tỏa nghiêm. 雲 道 帰 途 尽 鎖 厳
Thiên nữ phiên
phiên[1]
qui bất đắc, 天 女 翩 翩 帰 不 得
Tạm lưu vũ thái
tại nhân gian. 暫 留 舞 態 在 人 間
[1]
Phiên phiên: nhẹ nhàng, thoăn
thoắt.
|
|
Anh dịch:
In fitful path across the sky,
By various winds of heaven forced,
Cloud-borne Otome glideth by –
Now hath the breeze its vigour lost
An instant, and her form so bright
For a fleeting moment greets my sight.
O ye Winds of Heaven!
In the paths among the clouds
Blow, and close the ways,
That we may these virgin forms
Yet a little while detain.
(Mac Cauley)
|
|
Trong Kokin-shuu,
có chú thích là bài thơ
đã được làm ra trong dịp
Gosechi (五節Ngũ
Tiết) tức là một nghi thức
trong cung vào ngày 23 tháng 11 âm
lịch hằng năm nhân dịp Niinamesai
(新賞祭Tân
Thưởng Tế), lễ cúng lúa
mới cho thiên thần thổ địa
nếm trước. Lúc đó con gái
các nhà lương gia quí tộc
(乙女otome)
được tuyển chọn làm vũ
công và tranh đua trình diễn.
Tương truyền cảnh ca múa bắt
đầu có từ đời Thiên
Hoàng Tenmu (trị vì 673-686) để
ghi nhớ việc ông đi tuần thú
ở vùng Yoshino, đã gặp người
tiên từ trên trời xuống múa
hát.
Có truyền thuyết giữa
Sôjô Henjô và Ono no Komachi có
liên hệ luyến ái nhưng chẳng
qua do sự giải thích ý nghĩa
của một bài thơ đối đáp
giữa hai người.
|
|