Bài số 5:  

Thơ Sarumaru-Dayuu 猿丸大夫

 

a) Nguyên văn:

奥山に

紅葉踏みわけ

鳴く鹿の

声きく時ぞ

秋は悲しき

b) Phiên âm:

Okuyama ni

Momiji fumiwake

Nakushika no

Koe kiku toki zo

Aki wa kanashiki

c) Diễn ý:

Rẽ lối lá phong đỏ,

Trong núi sâu.

Chính là lúc nghe tiếng nai kêu,

Mới thấy mùa thu buồn biết bao.

 

d) Dịch thơ:

Bước ai trong núi vắng,
Rẽ lá phong lao xao?
Khi nghe nai gọi bạn,
Thu ơi, buồn làm sao!

(ngũ ngôn)

Núi sâu, rẽ lối lá phong,
Nai kêu chi để chạnh lòng sầu thu.

(lục bát)

 

e)      Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Kokin-shuu (Cổ Kim Tập), quyển 4, phần thu thượng, bài số 215.

Tác giả: Sarumaru Dayuu (Viên Hoàn Đại Phu, không rõ năm sinh năm mất). Ông là một nhân vật truyền thuyết, sống khoảng giữa thế kỷ thứ 8 và thứ 9. Chính ra bài này được ghi lại từ hồ sơ lưu trong một hội bình thơ (uta-awase) ở phủ đệ hoàng tử Koresada với chú thích “không rõ tác giả” nhưng nhà biên tập Teika đã đưa vào Hyakunin Isshu với danh nghĩa tác phẩm của Sarumaru.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Tiếng nai kêu làm cho nỗi buồn mùa thu lên đến chỗ tột cùng.

Trong bài này Sarumaru-dayu vịnh cảnh nai đực đi tìm nai cái, gọi bạn giữa rừng thu lá đỏ. Có thuyết nói là tác phẩm đã gợi hứng cho Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư. Vì chủ từ của động tác “rẽ lá phong” có thể là người ta mà cũng có thể là một cặp nai đang đi tìm nhau cho nên bài thơ thêm phần thi vị trong sự mơ hồ. Các nhà bình luận Nhật Bản phần nhiều cho rằng chủ từ của động tác ấy là nai vì họ thấy trong Man.yô-shuu có nhiều bài có thể loại tương tự. Người chỉ nghe tiếng nai kêu mà tưởng tượng ra cảnh nai rẽ lá phong, gọi bạn mà thôi. Từ đó suy diễn được là tác giả đã mượn chuyện nai để nhớ về người vợ hay người yêu của mình.

Momiji là lá phong (kaede, Japanese maple) vào thu đổi ra màu đỏ. Tuy nhiên đi với nai kêu (naku shika) thì trong thơ cổ phải là lá cây “thưu” (hagi, lespedeza clover) và viết chữ Hán là “hoàng diệp” thay vì “hồng diệp”. Lá cây hagi đổi màu vào tiết sơ thu trong khi kaede đổi màu sau đó. Có điều bản Teika tuyển viết là “hồng” nên có thể hiểu là lá phong và lúc ấy mùa thu đã sâu rồi (vãn thu).

Khác với mùa thu ở nông thôn là mùa của gặt hái thu hoạch, nỗi buồn nếu có thì cũng là buồn cho kiếp sống lao động nhọc nhằn (xem bài 1), mùa thu của người đô thị trong bài này buồn man mác với tình cảm thương xót cho cuộc đời tàn tạ theo năm tháng.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Thâm sơn hồng diệp.
深 山 紅 葉

Thâm sơn hồng diệp mãn địa phiêu,

深 山 紅 葉 満 地 瓢

Túc đạp hồng diệp lộ điều điều[1].

足 踏 紅 葉 道 迢 迢

Văn đạo lộc minh thanh ai khổ,

聞 道 鹿 鳴 声 哀 苦

Bi cảm phong hàn thu khí cao.

悲 感 風 寒 秋 気 高


 


[1] Điều điều, còn đọc là thiều thiều: xa xôi, thăm thẳm.

Anh dịch:

Now’ mid the hills the Momiji

Is trampled down ‘neath hoof of deer

Whose plaintive cries continually

Are heard both far and near;

My shivering frame

Now autumn’s piercing chills doth blame.

(Dickins)

In the mountain depths,

Treading through the crimson leaves,

Cries the wandering stag.

When I hear the lonely cry,

Sad,- how sad - the autumn is!

(Mac Cauley)

 

Danh xưng Sarumaru có nhiều thuyết. Có nơi nói là một tên của Yuge no ôkimi, một hoàng tử dòng dõi Thái Tử Shôtoku (Thánh Đức), nơi khác đưa ra thuyết Yuge Dôkyô (tăng Đạo Kính), một nhà sư được nữ thiên hoàng Shôtoku (Xứng Đức, trị vì 764-770) yêu dấu và suýt chiếm được cả ngôi thiên hoàng. Lại có nơi cho là một nhân vật có khuôn mặt giống khỉ (saru) mới bị chế là Sarumaru như thế. Còn chữ Dayuu (Tayuu khi đọc ghép, đại phu / thái phu) có thể ám chỉ ông này xuất thân là một người diễn trò, chứ không phải là một chức hàng ngũ phẩm như âm Hán của chữ này có thể làm ta liên tưởng. Thời Edo, gái làng chơi hạng sang hay người kể truyện rong cũng được gọi là Tayuu.

Ngày nay, từ thành phố Uji ngược dòng sông Uji đi lên, bên tay phải và ở trong núi có một thị trấn nhỏ tên là Ujitawara, nổi tiếng trà ngon. Gần đó có đền thờ Sarumaru Dayuu và một ngọn đèo mang tên ông. Khu rừng bên cạnh có khi là nơi xưa kia ông đã từng nghe tiếng nai kêu?

 

 





Bài số 5:  

Thơ Sarumaru-Dayuu 猿丸大夫

 

a) Nguyên văn:

奥山に

紅葉踏みわけ

鳴く鹿の

声きく時ぞ

秋は悲しき

b) Phiên âm:

Okuyama ni

Momiji fumiwake

Nakushika no

Koe kiku toki zo

Aki wa kanashiki

c) Diễn ý:

Rẽ lối lá phong đỏ,

Trong núi sâu.

Chính là lúc nghe tiếng nai kêu,

Mới thấy mùa thu buồn biết bao.

 

d) Dịch thơ:

Bước ai trong núi vắng,
Rẽ lá phong lao xao?
Khi nghe nai gọi bạn,
Thu ơi, buồn làm sao!

(ngũ ngôn)

Núi sâu, rẽ lối lá phong,
Nai kêu chi để chạnh lòng sầu thu.

(lục bát)

 

e)      Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Kokin-shuu (Cổ Kim Tập), quyển 4, phần thu thượng, bài số 215.

Tác giả: Sarumaru Dayuu (Viên Hoàn Đại Phu, không rõ năm sinh năm mất). Ông là một nhân vật truyền thuyết, sống khoảng giữa thế kỷ thứ 8 và thứ 9. Chính ra bài này được ghi lại từ hồ sơ lưu trong một hội bình thơ (uta-awase) ở phủ đệ hoàng tử Koresada với chú thích “không rõ tác giả” nhưng nhà biên tập Teika đã đưa vào Hyakunin Isshu với danh nghĩa tác phẩm của Sarumaru.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Tiếng nai kêu làm cho nỗi buồn mùa thu lên đến chỗ tột cùng.

Trong bài này Sarumaru-dayu vịnh cảnh nai đực đi tìm nai cái, gọi bạn giữa rừng thu lá đỏ. Có thuyết nói là tác phẩm đã gợi hứng cho Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư. Vì chủ từ của động tác “rẽ lá phong” có thể là người ta mà cũng có thể là một cặp nai đang đi tìm nhau cho nên bài thơ thêm phần thi vị trong sự mơ hồ. Các nhà bình luận Nhật Bản phần nhiều cho rằng chủ từ của động tác ấy là nai vì họ thấy trong Man.yô-shuu có nhiều bài có thể loại tương tự. Người chỉ nghe tiếng nai kêu mà tưởng tượng ra cảnh nai rẽ lá phong, gọi bạn mà thôi. Từ đó suy diễn được là tác giả đã mượn chuyện nai để nhớ về người vợ hay người yêu của mình.

Momiji là lá phong (kaede, Japanese maple) vào thu đổi ra màu đỏ. Tuy nhiên đi với nai kêu (naku shika) thì trong thơ cổ phải là lá cây “thưu” (hagi, lespedeza clover) và viết chữ Hán là “hoàng diệp” thay vì “hồng diệp”. Lá cây hagi đổi màu vào tiết sơ thu trong khi kaede đổi màu sau đó. Có điều bản Teika tuyển viết là “hồng” nên có thể hiểu là lá phong và lúc ấy mùa thu đã sâu rồi (vãn thu).

Khác với mùa thu ở nông thôn là mùa của gặt hái thu hoạch, nỗi buồn nếu có thì cũng là buồn cho kiếp sống lao động nhọc nhằn (xem bài 1), mùa thu của người đô thị trong bài này buồn man mác với tình cảm thương xót cho cuộc đời tàn tạ theo năm tháng.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Thâm sơn hồng diệp.
深 山 紅 葉

Thâm sơn hồng diệp mãn địa phiêu,

深 山 紅 葉 満 地 瓢

Túc đạp hồng diệp lộ điều điều[1].

足 踏 紅 葉 道 迢 迢

Văn đạo lộc minh thanh ai khổ,

聞 道 鹿 鳴 声 哀 苦

Bi cảm phong hàn thu khí cao.

悲 感 風 寒 秋 気 高


 


[1] Điều điều, còn đọc là thiều thiều: xa xôi, thăm thẳm.

Anh dịch:

Now’ mid the hills the Momiji

Is trampled down ‘neath hoof of deer

Whose plaintive cries continually

Are heard both far and near;

My shivering frame

Now autumn’s piercing chills doth blame.

(Dickins)

In the mountain depths,

Treading through the crimson leaves,

Cries the wandering stag.

When I hear the lonely cry,

Sad,- how sad - the autumn is!

(Mac Cauley)

 

Danh xưng Sarumaru có nhiều thuyết. Có nơi nói là một tên của Yuge no ôkimi, một hoàng tử dòng dõi Thái Tử Shôtoku (Thánh Đức), nơi khác đưa ra thuyết Yuge Dôkyô (tăng Đạo Kính), một nhà sư được nữ thiên hoàng Shôtoku (Xứng Đức, trị vì 764-770) yêu dấu và suýt chiếm được cả ngôi thiên hoàng. Lại có nơi cho là một nhân vật có khuôn mặt giống khỉ (saru) mới bị chế là Sarumaru như thế. Còn chữ Dayuu (Tayuu khi đọc ghép, đại phu / thái phu) có thể ám chỉ ông này xuất thân là một người diễn trò, chứ không phải là một chức hàng ngũ phẩm như âm Hán của chữ này có thể làm ta liên tưởng. Thời Edo, gái làng chơi hạng sang hay người kể truyện rong cũng được gọi là Tayuu.

Ngày nay, từ thành phố Uji ngược dòng sông Uji đi lên, bên tay phải và ở trong núi có một thị trấn nhỏ tên là Ujitawara, nổi tiếng trà ngon. Gần đó có đền thờ Sarumaru Dayuu và một ngọn đèo mang tên ông. Khu rừng bên cạnh có khi là nơi xưa kia ông đã từng nghe tiếng nai kêu?