Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
Chủ ]
[ Tác giả ]
|
(Tôi tạ tội) Woody
Allen
|
The Death of Socrates (Jacques-Louis David, 1787) Tranh "Cái chết của Socrates" do hoạ sĩ Pháp Jacques-Louis David (1748-1825) sáng tác năm 1787, mô tả cảnh Socrates nhận chén thuốc độc tử hình. Socrates đã có thể chịu lưu đày chối bỏ triết thuyết của mình, nhưng ông chọn cái chết. Socrates chỉ tay lên trời, biểu lộ lòng sùng kính Thượng Đế và ý bất khuất trước cái chết. Học trò của ông, Plato ngồi cúi đầu ở cuối giường, và Crito đặt tay lên đầu gối của thầy. Woody Allen Lời người dịch: Woody Allen là một biểu tượng của tầng lớp nghệ sĩ trí thức Mỹ hiện đại, và thành phố New York trung-thượng-lưu. Ông tên thật là Allen Stewart Konigsberg, sinh năm 1935, là một kịch tác gia, kịch sĩ tấu hài, nhà văn, nhạc sĩ Jazz chuyên thổi hắc-tiêu clarinet,... được biết tiếng sâu rộng nhất là trong lãnh vực phim ảnh: đạo diễn, tài tử chính, viết kịch bản phim. Từ năm 19 tuổi đã viết kịch bản cho các chương trình ti-vi The Ed Sullivan Show, The Tonight Show. Sau này viết và dựng kịch trên sân khấu Broadway: "Don't Drink the Water", "Play It Again, Sam",..., chủ quản và chủ diễn chương trình ti-vi The Woody Allen Special. Thành công lớn trong sự nghiệp đạo diễn, diễn xuất, kịch bản: phim "Annie Hall" đoạt bốn giải Oscar năm 1977, kể cả giải Phim hay nhất; phim "The Purple Rose of Cairo" và phim "Vicky Cristina Barcelona" đoạt giải Golden Globe năm 1986 và 2009,... Cho đến nay, ông đã đoạt 4 giải Oscar sau 21 lần được đề cử Oscar: 14 lần với tư cách nhà viết kịch bản, 6 lần đạo diễn, và một lần diễn viên chính. Tác phẩm văn học thì có các tập truyện & tiểu phẩm & kịch bản "Getting Even", "Without Feathers", "Side Effects", "Mere Anarchy". "My Apology" (Tôi tạ tội) là tác phẩm thứ 5 trong tập "Side Effects" (1980) của Woody Allen; bản dịch này từ nguyên tác trong tập hợp-tuyển "Complete Prose - Woody Allen" từ Nhà xuất bản Picador năm 1997. |
Trong
tất cả các danh nhân của mọi thời đại, tôi muốn được
là Socrates[1]nhất. Chẳng
phải chỉ vì ông là một nhà tư tưởng vĩ đại, bởi chính
tôi cũng đã từng được biết là có những thấu thị sâu
sắc, tuy bao giờ cũng là về một cô tiếp viên hàng không
người Thụy Điển và mấy chiếc còng tay. Không, đối với
tôi, điểm hấp dẫn nhất của nhà hiền triết số một của
Hy Lạp này là sự dũng cảm của ông đối với cái chết.
Ông đã quyết không chối bỏ những nguyên tắc của mình,
đã chọn hy sinh tính mạng để chứng tỏ chân lý. Bản thân
tôi thì không có dũng khí bất khuất trước cái chết được
như ông; mỗi khi có tiếng động thình lình kiểu tiếng nổ
đằng ống khói xe hơi là tôi nhảy ngay lên tay ẳm của người
đối thoại. Kết cuộc, cái chết dũng cảm của Socrates đã
xác chứng ý nghĩa cuộc đời ông, là thứ mà đời tôi hoàn
toàn không có, tuy nó vẫn có chút liên quan với Sở Thuế
vụ. Thú thật là tôi đã lắm lần thử đặt mình vào cương
vị của nhà hiền triết vĩ đại này, nhưng lần nào cũng
vậy, tôi ngủ thiếp đi trong cơn mộng như sau đây.
(Cảnh phòng giam tôi. Thường là tôi ngồi một mình suy ngẫm những vấn đề luận lý sâu sắc kiểu như: một đồ vật có thể xem là tác phẩm nghệ thuật hay không, nếu còn được dùng để lau chùi bếp lò? Còn bây giờ thì đang có Agathon [2]và Simmias[3]vào thăm tôi) Agathon: -A, anh bạn lâu năm thông tuệ của tôi. Những ngày bị giam cầm, anh thấy sao nào? Allen: -Này Agathon, giam cầm là gì chứ? Chỉ có thân xác là chịu giới hạn thôi, chứ tư duy của tôi bay lượn tự do, không bị ngăn cản gì bởi bốn bức tường này cả. Vì thế, tôi hỏi rằng: giam cầm có là sự thật hay không? Agathon: -A, nếu anh muốn ra ngoài tản bộ thì sao nào? Allen: -Câu hỏi hay đấy. Tôi không ra ngoài được. (Ba chúng tôi ngồi kiểu cổ điển, không khác gì đồ trang trí trong phòng. Cuối cùng, Agathon lên tiếng) Agathon: -Tôi sợ rằng tin xấu đây. Anh đã bị kêu án tử hình! Allen: -À, tôi tiếc là đã gây ra tranh cãi trong Viện Nguyên lão. Agathon: -Chẳng tranh cãi gì cả. Phán quyết nhất trí đấy. Allen: -Thật thế sao? Agathon: -Quyết định ngay lần bỏ phiếu đầu tiên mà! Allen: -Tôi đã trông đợi có người ủng hộ tôi hơn thế. Simmias: -Viện Nguyên lão nổi giận vì ý tưởng của thầy về một quốc gia thiên đàng trần thế. Allen: -Có lẽ tôi chẳng bao giờ nên đề xướng một nhà vua triết gia! Simmias: -Nhất là cùng lúc đó, thầy lại chỉ tay vào mình mà đằng hắng. Allen: -Dù vậy, tôi không xem những kẻ xử tội tôi là ác. Agathon: -Tôi cũng thế. Allen: -Ờ, phải rồi... Chứ ác chẳng qua chỉ là thiện quá thừa đó thôi. Agathon: -Sao lại thế được? Allen: -Cứ nghĩ thế này: nếu có người hát lên một bài ca hay, thì đẹp lắm. Thế nhưng nếu anh ta cứ hát đi hát lại mãi, thì người nghe đâm ra nhức đầu. Agathon: -Đúng thế. Allen: -Và nếu anh ta nhất định không chịu ngừng hát thì thế nào cũng đến lúc người ta muốn nhét vớ-tất vào tận họng anh ta thôi. Agathon: -Vâng, đúng lắm. Allen: -Thế khi nào thì bản án sẽ được thi hành? Agathon: -Bây giờ là mấy giờ rồi? Allen: -Ngay hôm nay sao? Agathon: -Chứ họ cần phòng giam mà! Allen: -Thế thì cứ để họ làm. Cứ để họ giết tôi. Hãy ghi chép vào sử sách rằng tôi thà chết chứ không chối bỏ nguyên tắc tôn sùng sự thật và tự do suy tưởng. Đừng khóc, Agathon! Agathon: -Tôi có khóc đâu. Dị ứng phấn hoa đấy thôi. Allen: -Đối với người của trí tuệ thì chết không phải là điểm cuối, mà chính là điểm khởi đầu. Simmias: -Sao lại thế được? Allen: -Ờ... chờ cho một phút... Simmias: -Xin cứ suy nghĩ đi. Allen: -Simmias này, con người không hiện hữu trước khi được sinh ra, phải thế không? Simmias: -Đúng thế. Allen: -Mà cũng không hiện hữu sau khi chết chứ gì? Simmias: -Vâng, đồng ý. Allen: -Hừm... Simmias: -Rồi sao? Allen: -Ờ... chờ cho một phút... Tôi có hơi rối loạn rồi đây. Anh biết đấy, họ chỉ cho tôi mỗi một món thịt cừu mà chẳng bao giờ nấu thật chín cả. Simmias: -Phần đông người ta nghĩ chết là hết. Vì thế, họ sợ hãi. Allen: -Chết, là một trạng thái phi-hiện-hữu. Cái gì không hiện hữu thì không có thật. Do đó, cái chết không có thật. Chỉ sự thật là có thật. Chân và Mỹ, hoán đổi cho nhau được, mà cũng là thuộc tính của nhau... Nhưng mà này, họ có bảo xử hình tôi bằng cách nào không? Agathon: -Thuốc độc Hemlock (độc cần) đấy. Allen: -Thuốc độc à? Agathon: -Anh nhớ thứ dịch thể màu đen ăn thủng qua bàn cẩm thạch nhà anh đấy chứ? Allen: -Thật thế à? Agathon: -Chỉ cần một cốc đầy thôi. Tuy họ có sẵn cả một bình phòng hờ trường hợp anh nhổ ra. Allen: -Chẳng biết có đau đớn lắm không nhỉ? Agathon: -Họ yêu cầu anh đừng gây huyên náo làm kinh động đến những người tù khác đấy. Allen: -Hừm... Agathon: -Tôi bảo mọi người rằng anh thà chết dũng cảm chứ không chối bỏ những nguyên tắc của mình. Allen: -Đúng thế... Ờ, nhưng mà khái niệm "lưu đày" có được họ nhắc đến không? Agathon: -Họ đã bãi bỏ "lưu đày" từ năm ngoái rồi. Bởi thủ tục phiền phức quá. Allen: -Thế à... ừm... (hoang mang lo lắng nhưng cố tỏ vẻ bình tĩnh) Tôi... ờ... thế... ờ... có tin gì nữa không? Agathon: -À, tôi tình cờ gặp Isosceles. Anh ta có sáng kiến về một loại tam giác mới. Allen: -Thế à... thế à... (đột nhiên, bỏ mọi gắng gượng can đảm) Này, tôi phải nói thật với các anh. Tôi không muốn chết! Tôi còn trẻ quá mà! Agathon: -Nhưng đây là cơ hội để anh chết cho Sự Thật kia mà! Allen: -Đừng hiểu lầm tôi. Tôi hết mình vì Sự Thật. Nhưng mặt khác, tôi có hẹn ăn trưa ở Sparta vào tuần sau, và tôi không muốn sai hẹn tí nào cả. Đến phiên tôi mời mà. Các anh biết đấy, dân Sparta dễ nổi nóng đánh nhau lắm. Simmias: -Triết gia thông tuệ nhất của chúng ta lại là một thằng hèn sao chứ? Allen: -Tôi không phải là thằng hèn mà tôi cũng không là anh hùng. Tôi ở giữa hai thái cực đó. Simmias: -Một thứ sâu bọ co rúm lại! Allen: -Gần đúng đấy. Agathon: -Nhưng chính anh vừa chứng minh cái chết là không có thật kia mà! Allen: -Này, hiểu giùm cho tôi. Tôi đã chứng minh rất nhiều điều. Nhờ thế mới trả được tiền nhà trọ. Vài lý thuyết, vài quan sát. Thỉnh thoảng lại có những nhận xét tinh quái, những câu châm ngôn. Đủ để có hiệu quả hơn là đi hái trái ô-liu. Nhưng đừng vì thế mà đánh giá quá mức chứ! Agathon: -Nhưng anh đã lắm lần chứng minh linh hồn là bất tử kia mà! Allen: -Bất tử thật đấy chứ! Trên sách vở ấy. Anh thấy chưa! Triết học là thế đấy. Không có tác dụng gì mấy một khi anh bước ra khỏi phòng học. Simmias: -Thế còn "hình tượng" vĩnh cửu thì sao? Thầy đã bảo rằng mọi "hình tượng" là có thật và hiện hữu vĩnh viễn đấy thôi! Allen: -Tôi đã nói thế phần lớn là về những vật thể nặng kia! Một bức tượng, hay gì đấy. Chứ người ta thì khác hơn nhiều. Agathon: Nhưng anh đã giảng giải dài dòng rằng cái chết chỉ như giấc ngủ đấy thôi! Allen: -Vâng, nhưng điểm khác biệt là nếu anh chết mà có ai hô: Mọi người thức dậy đi! Sáng rồi đấy! thì anh khó mà tìm cho ra đôi dép! (Người xử hình đến với một cốc thuốc độc. Nét mặt hắn trông thật giống Spike Milligan, kịch sĩ tấu hài người Ái-Nhĩ-Lan) Người xử hình: -À, đây rồi. Ai phải uống thuốc độc đây? Agathon: (chỉ vào tôi) -Người này! Allen: -Ôi, cốc thuốc to thế! Lại bốc khói như thế à? Người xử hình: -Đúng thế. Phải uống cho kỳ hết, vì nhiều khi, chất độc lắng xuống đáy cốc. Allen: (Thường thì đến đây, cách ứng xử của tôi hoàn toàn khác với Socrates, và người ta bảo là tôi hay hét lên trong khi ngủ) -Không! Tôi không uống! Tôi không muốn chết! Cứu tôi! Cứu tôi với! Không! Tôi không muốn chết! Cứu tôi với! (Người xử hình trao cho tôi cốc thuốc độc bốc khói mặc cho tôi nhăn nhó cầu khẩn tuyệt vọng. Rồi do bản năng sinh tồn tiềm ẩn trong tôi, cơn mộng luôn luôn chuyển sang hướng tốt, và có người sứ giả đưa tin đến) Sứ giả: -Ngưng cả lại! Viện Nguyên lão đã bỏ phiếu lại. Xoá bỏ các phán quyết trước. Ông được đánh giá trở lại và phán quyết lại là được vinh danh! Allen: -Có thế chứ! Có thế chứ! Họ đã thức tỉnh! Tôi là người tự do! Tự do! Còn được vinh danh nữa chứ! Nhanh lên, Agathon! Simmias! lấy mấy cái xách cho tôi. Tôi phải đi ngay đây. Praxiteles sẽ muốn bắt tay sớm vào việc điêu khắc tượng bán thân của tôi đấy. Nhưng trước khi đi, để tôi kể một chuyện ngụ ngôn đã. Simmias: -Ôi chao! quả là một đảo ngược quá đột ngột! Họ có hiểu chuyện họ làm không nhỉ? Allen: -Có một nhóm người sống trong hang tối. Họ không hề biết là bên ngoài hang đầy ánh sáng mặt trời. Họ chỉ biết thứ ánh sáng duy nhất là từ vài thỏi đèn sáp nhỏ họ dùng trong việc di chuyển bên trong hang mà thôi. Agathon: -Họ lấy đèn sáp từ đâu ra? Allen: -Ừ thì, cứ cho là họ có sẵn đi. Agathon: -Họ sống trong hang mà lại có loại đèn sáp à? Nghe chẳng thật tí nào! Allen: -Cứ chấp nhận thế đi, có được không? Agathon: -Được thôi, được thôi! Nhưng xin đi vào điểm chính ngay cho! Allen: -Thế rồi một ngày kia, một người trong bọn họ đi lạc ra khỏi hang và thấy được thế giới bên ngoài. Simmias: -Với toàn bộ sự rõ ràng minh bạch của nó! Allen: -Chính xác như thế. Rõ ràng minh bạch. Agathon: -Khi anh ta gắng nói cho bọn kia hiểu, chẳng ai tin cả, chứ gì? Allen: -À, không. Anh ta chẳng nói cho ai cả. Agathon: -Không nói à? Allen: -Không. Anh ta mở một chợ thịt, lấy vợ là vũ nữ, rồi chết vì chảy máu trong não ở tuổi bốn mươi hai. (Họ nắm giữ tôi lại và bắt tôi uống thuốc độc. Đến đấy thì thường thường tôi tỉnh dậy toát mồ hôi đầm đìa, và chỉ có mấy quả trứng với cá hồi xông khói là có thể trấn an được tôi thôi).
|
Chú thích:
[1]Socrates : 469-399 trước Công nguyên, triết gia và nhà cải cách giáo dục Hy Lạp, được xem là người khai sáng nền triết học Tây phương. Sống vào thời Athens suy thoái rồi bị Sparta đánh bại, ông bị xử tử (vì có tư tưởng đối nghịch với người Hy Lạp đương thời về đạo đức, trí tuệ và chính trị) dưới tội danh "đầu độc giới trẻ" và "phạm thượng đối với thánh thần". [2]Agathon : 448-400 trước Công nguyên, nhà thơ Hy Lạp. [3]Simmias
: thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, đồ đệ của Socrates
nhưng đối nghịch với thầy, không tán đồng linh hồn là
bất tử.
|
|