1055. Chung quanh những
nước non người,
Đau lòng lưu lạc, nên
vài bốn câu .
Ngậm ngùi rủ bước
rèm châu,
Cách tường, nghe có
tiếng đâu họa vần.
Một chàng vừa trạc
thanh xuân,
1060. Hình dong chải chuốt,
áo khăn dịu dàng.
Nghĩ rằng cũng mạch
thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng
chàng Sở Khanh.
Bóng Nga thấp thoáng
dưới mành,
Trông nàng, chàng cũng
ra tình đeo đai .
1065. Than ôi ! sắc nước
hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc
loài đến đây ?
Giá đành trong nguyệt
trên mây,
Hoa sao, hoa khéo đọa
đày bấy hoa ?
Tức gan riêng giận trời
già,
1070. Lòng này ai tỏ cho
ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết
anh hùng,
Ra tay tháo cũi, sổ lồng
như chơi !
Song thu đã khép cánh
ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy
lời sắt đanh.
1075. Nghĩ người thôi
lại nghĩ mình,
Cám lòng chua xót, nhạt
tình chơ vơ .
Những là lần lữa nắng
mưa,
Kiếp phong trần biết
bao giờ mới thôi ?
Đánh liều nhắn một
hai lời,
1080. Nhờ tay tế độ
vớt người trầm luân.
Mảnh tiên kể hết xa
gần,
Nỗi nhà báo đáp, nỗi
thân lạc loài .
Tan sương vừa rạng
ngày mai,
Tiện hồng nàng mới
nhắn lời gửi sang.
1085. Trời tây lãng đãng
bóng vàng,
Phúc thư đã thấy tin
chàng đến nơi .
Mở xem một bức tiên
mai,
Rành rành tích việt
có hai chữ đề .
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt,
tuất thì phải chăng?
Chim hôm thoi thót về
rừng,
Đóa trà mi đã ngậm
trăng nửa vành.
Tường đông lay động
bóng cành,
Rẽ song, đã thấy Sở
Khanh lẻn vào .
1095. Sượng sùng đánh
dạn ra chào,
Lạy thôi, nàng mới
rỉ tai ân cần.
Rằng: Tôi bèo bọt chút
thân,
Lạc đàn mang lấy nợ
nần yến anh.
Dám nhờ cốt nhục tử
sinh,
1100. Còn nhiều kết cỏ
ngậm vành về sau !
Lặng nghe, lẩm nhẩm
gật đầu:
Ta đây phải mượn ai
đâu mà rằng !
Nàng đà biết đến
ta chăng,
Bể trầm luân, lấp
cho bằng mới thôi !
1105. Nàng rằng: Muôn
sự ơn người,
Thế nào xin quyết một
bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy
phong,
Có tên dưới trướng,
vốn dòng kiện nhi .
Thừa cơ lẻn bước
ra đi,
1110. Ba mươi sáu chước,
chước gì là hơn.
Dù khi gió kép, mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng
cơn cớ gì !
Nghe lời nàng đã sinh
nghi,
Song đà quá đỗi, quản
gì được thân.
1115. Cũng liều nhắm
mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần
đến đâu !
Cùng nhau lẻn bước
xuống lầu,
Song song ngựa trước,
ngựa sau một đoàn.
Đêm thâu khắc lậu
canh tàn,
1120. Gió cây trút lá,
trăng ngàn ngậm gương.
Lối mòn cỏ nhợt mù
sương,
Lòng quê đi một bước
đường, một đau .
Tiếng gà xao xác gáy
mau,
Tiếng người đâu đã
mái sau dậy dàng.
1125. Nàng càng thổn thức
gan vàng,
Sở Khanh đã rẽ dây
cương lối nào !
Một mình khôn biết
làm sao,
Dặm rừng bước thấp,
bước cao hãi hùng.
Hóa nhi thật có nỡ
lòng,
1130. Làm chi dày tía,
vò hồng, lắm nau !
Một đoàn đổ đến
trước sau,
Vuốt đâu xuống đất,
cánh đâu lên trời .
Tú bà tốc thẳng đến
nơi,
Hầm hầm áp điệu một
hơi lại nhà .
1135. Hung hăng chẳng nói
chẳng tra,
Đang tay vùi liễu, giập
hoa tơi bời .
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng,
thắm rời chẳng đau .
Hết lời thú phục,
khẩn cầu,
1140. Uốn lưng thịt đổ,
cất đầu máu sa .
Rằng: Tôi chút phận
đàn bà,
Nước non lìa cửa, lìa
nhà, đến đây.
Bây giờ sống chết
ở tay,
Thân này đã đến thế
này thì thôi !
1145. Nhưng tôi có sá
chi tôi,
Phận tôi đành vậy,
vốn người để đâu ?
Thân lươn bao quản lấm
đầu,
Chút lòng trinh bạch
từ sau xin chừa !
Được lời mụ mới
tùy cơ,
1150. Bắt người bảo
lĩnh làm tờ cung chiêu .
Bày vai có ả Mã Kiều,
Xót nàng, ra mới đánh
liều chịu đoan .
Mụ càng kể nhặt, kể
khoan,
Gạn gùng đến mực,
nồng nàn mới tha .
1155. Vực nàng vào nghỉ
trong nhà,
Mã Kiều lại ngỏ ý
ra dặn lời:
Thôi đà mắc lận thì
thôi !
Đi đâu chẳng biết
con người Sở Khanh?
Bạc tình, nổi tiếng
lầu xanh,
1160. Một tay chôn biết
mấy cành phù dung !
Đà đào lập sẵn chước
dùng,
Lạ gì một cốt một
đồng xưa nay !
Có ba mươi lạng trao
tay,
Không dưng chi có chuyện
này, trò kia !
1165. Rồi ra trở mặt
tức thì,
Bớt lời, liệu chớ
sân si, thiệt đời !
Nàng rằng: Thề thốt
nặng lời,
Có đâu mà lại ra người
hiểm sâu !
Còn đương suy trước,
nghĩ sau,
1170. Mặt mo đã thấy
ở đâu dẫn vào .
Sở Khanh lên tiếng rêu
rao:
Rằng nghe mới có con
nào ở đây .
Phao cho quyến gió rủ
mây,
Hãy xem có biết mặt
này là ai
1175. Nàng rằng: Thôi
thế thì thôi !
Rằng không, thì cũng
vâng lời là không !
Sở Khanh quắt mắng
đùng đùng,
Sấn vào, vừa rắp thị
hùng ra tay,
Nàng rằng: Trời nhé
có hay !
1180. Quyến anh, rủ yến,
sự này tại ai ?
Đem người giẩy xuống
giếng khơi,
Nói rồi, rồi lại ăn
lời được ngay !
Còn tiên tích việt ở
tay,
Rõ ràng mặt ấy, mặt
này chứ ai ?
1185. Lời ngay, đông mặt
trong ngoài,
Kẻ chê bất nghĩa, người
cười vô lương !
Phụ tình án đã rõ
ràng,
Dơ tuồng, nghỉ mới
kiếm đường tháo lui .
Buồng riêng, riêng những
sụt sùi:
1190. Nghĩ thân, mà lại
ngậm ngùi cho thân.
Tiếc thay trong giá trắng
ngần,
Đến phong trần, cũng
phong trần như ai !
Tẻ vui cũng một kiếp
người,
Hồng nhan phải giống
ở đời mãi ru !
1195. Kiếp xưa đã vụng
đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo
đền bù mới xuôi !
Dù sao bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ
đời cho xong !
Vừa tuần nguyệt sáng,
gương trong,
1200. Tú bà ghé lại thong
dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm
công phu,
Làng chơi ta phải biết
cho đủ điều .
Nàng rằng: Mưa gió dập
dìu,
Liều thân, thì cũng
phải liều thế thôi!
1205. Mụ rằng: Ai cũng
như ai,
Người ta ai mất tiền
hoài đến đây ?
ở trong còn lắm điều
hay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi
ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy nằm
lòng,
1210. Vành ngoài bảy chữ,
vành trong tám nghề .
Chơi cho liễu chán, hoa
chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê
mẩn đời .
Khi khóe hạnh, khi nét
ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt,
khi cười cợt hoa .
1215. Điều là nghề nghiệp
trong nhà,
Đủ ngần ấy nết,
mới là người soi .
Gót đầu vâng dạy mấy
lời,
Dường chau nét nguyệt,
dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói, đã thẹn
thùng,
1220. Nước đời lắm
nỗi lạ lùng, khắt khe!
Xót mình cửa các, buồng
khuê,
Vỡ lòng, học lấy những
nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn, mày
dày,
Kiếp người đã đến
thế này thì thôi!
1225. Thương thay thân
phận lạc loài,
Dẫu sao cũng ở tay người
biết sao ?
Lầu xanh, mới rủ trướng
đào,
Càng treo giá ngọc, càng
cao phẩm người .
Biết bao bướm lả,
ong lơi,
1230. Cuộc say đầy tháng,
trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió, cành
chim,
Sớm đưa Tống Ngọc,
tối tìm Tràng Khanh.
Khi tỉnh rượu, lúc
tàn canh,
Giật mình, mình lại
thương mình xót xa .
1235. Khi sao phong gấm
rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa
giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn
sương,
Thân sao bướm chán,
ong chường bấy thân?
Mặt người mưa Sở,
mây Tần,
1240. Những mình nào biết
có xuân là gì!
Đôi phen gió tựa, hoa
kề,
Nửa rèm tuyết ngậm,
bốn bề trăng thâu .
Cảnh nào cảnh chẳng
đeo sầu,
Người buồn, cảnh có
vui đâu bao giờ!
1245. Đòi phen nét vẽ,
câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt,
nước cờ dưới hoa,
Vui là vui gượng kẻo
mà,
Ai tri âm đó, mặn mà
với ai ?
Thờ ơ gió trúc, mưa
mai,
1250. Ngẩn ngơ trăm nỗi,
giùi mài một thân.
Ôm lòng đòi đoạn xa
gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng
dần mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao
sâu,
Một ngày một ngả bóng
dâu tà tà .
1255. Dặm ngàn, nước
thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân phận
con ra thế này!
Sân hòe đôi chút thơ
ngây
Trân cam, ai kẻ đỡ
thay việc mình?
Nhớ lời nguyện ước
ba sinh,
1260. Xa xôi ai có thấu
tình chăng ai ?
Khi về hỏi liễu Chương
đài,
Cành xuân đã bẻ cho
người chuyên tay .
Tình sâu mong trả nghĩa
dày,
Hoa kia đã chắp cành
này cho chưa ?
1265. Mối tình đòi đoạn
vò tơ,
Giấc hương quan luống
lần mơ canh dài .
Song sa vò võ phương
trời,
Nay hoàng hôn, đã lại
mai hôn hoàng.
Lần lần thỏ bạc ác
vàng,
1270. Xót người trong
hội đoạn tràng đòi cơn !
Đã cho lấy chữ hồng
nhan,
Làm cho, cho hại, cho
tàn, cho cân !
Đã đày vào kiếp phong
trần,
Sao cho sỉ nhục một
lần mới thôi !
1275. Khách du bỗng có
một người,
Kỳ Tâm họ Thúc cũng
nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích
châu Thường,
Theo nghiêm đường mở
ngôi hàng Lâm tri .
Hoa khôi mộ tiếng Kiều
nhi,
1280. Thiếp hồng tìm
đến hương khuê gửi vào .
Trướng tô giáp mặt
hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn nét
nào chăng ưa ?
Hải đường mơn mởn
cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng
mưa càng nồng.
1285. Nguyệt hoa hoa nguyệt
não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm
lòng được chăng?
Lạ gì thanh khí lẽ
hằng,
Một dây một buộc ai
giằng cho ra .
Sớm đào tối mận lân
la,
1290. Trước còn trăng
gió sau ra đá vàng.
Dịp đâu may mắn lạ
dường,
Lại vừa gặp khoảng
xuân đường lại quê .
Sinh càng một tỉnh mười
mê,
Ngày xuân lắm lúc đi
về với xuân.
1295. Khi gió gác khi trăng
sân,
Bầu tiên chuốc rượu
câu thần nối thơ .
Khi hương sớm khi trà
trưa,
Bàn vây điểm nước
đường tơ họa đàn.
Miệt mài trong cuộc
truy hoan,
1300. Càng quen thuộc nết
càng dan díu tình.
Lạ cho cái sóng khuynh
thành,
Làm cho đổ quán xiêu
đình như chơi .
Thúc sinh quen thói bốc
rời,
Trăm nghìn đổ một
trận cười như không.
1305. Mụ càng tô lục
chuốt hồng,
Máu tham hễ thấy hơi
đồng thì mê .
Dưới trăng quyên đã
gọi hè,
Đầu tường lửa lựu
lập loè đâm bông.
Buồng the phải buổi
thong dong,
1310. Thang lan rủ bức
trướng hồng tẩm hoa .
Rõ màu trong ngọc trắng
ngà !
Dày dày sẵn đúc một
tòa thiên nhiên.
Sinh càng tỏ nét càng
khen,
Ngụ tình tay thảo một
thiên luật đường.
1315. Nàng rằng: Vâng
biết ý chàng.
Lời lời châu ngọc
hàng hàng gấm thêu .
Hay hèn lẽ cũng nối
điêu,
Nỗi quê nghĩ một hai
điều ngang ngang.
Lòng còn gửi áng mây
Vàng.
1320. Họa vần xin hãy
chịu chàng hôm nay .
Rằng: Sao nói lạ lùng
thay !
Cành kia chẳng phải
cỗi này mà ra ?
Nàng càng ủ đột thu
ba,
Đoạn trường lúc ấy
nghĩ mà buồn tênh:
1325. Thiếp như hoa đã
lìa cành,
chàng như con bướm lượn
vành mà chơi .
Chúa xuân đành đã có
nơi,
Vắn ngày thôi chớ dài
lời làm chi .
Sinh rằng: Từ thuở
tương tri,
1330. tấm riêng riêng
những nặng vì nước non.
Trăm năm tính cuộc vuông
tròn,
Phải dò cho đến ngọn
nguồn lạch sông.
Nàng rằng: Muôn đội
ơn lòng.
Chút e bên thú bên tòng
dễ đâu
1335. Bình Khang nấn ná
bấy lâu,
Yêu hoa yêu được một
màu điểm trang.
Rồi ra lạt phấn phai
hương,
Lòng kia giữ được
thường thường mãi chăng ?
Vả trong thềm quế cung
trăng,
1340. chủ trương đành
đã chị Hằng ở trong.
Bấy lâu khăng khít dải
đồng,
Thêm người người cũng
chia lòng riêng tây .
Vẻ chi chút phận bèo
mây,
Làm cho bể ái khi đầy
khi vơi .
1345. Trăm điều ngang
ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội
trời ấy cho ?
Như chàng có vững tay
co,
Mười phần cũng đắp
điếm cho một vài .
Thế trong dầu lớn hơn
ngoài,
1350. trươc hàm sư tử
gửi người đằng la .
Cúi đầu luồn xuống
mái nhà,
Giấm chua lại tội băng
ba lửa nồng.
ở trên còn có nhà thông,
Lượng trên trong xuống
biết lòng có thương?
1355. Sá chi liễu ngõ
hoa tường?
Lầu xanh lại bỏ ra
phường lầu xanh.
Lại càng dơ dáng dại
hình,
Đành thân phận thiếp
ngại danh giá chàng.
Thương sao cho vẹn thì
thương.
1360. Tính sao cho vẹn
mọi đường xin vâng.
Sinh rằng: Hay nói đè
chừng !
Lòng đây lòng đấy
chưa từng hay saỏ
Đường xa chớ ngại
Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông
vào một ta .
1365. Đã gần chi có điều
xa ?
Đá vàng đã quyết phong
ba cũng liều .
Cùng nhau căn vặn đến
điều,
Chỉ non thề bể nặng
gieo đến lời .
Nỉ non đêm ngắn tình
dài,
1370. Ngoài hiên thỏ đã
non đoài ngậm gương.
Mượn điều trúc viện
thừa lương,
Rước về hãy tạm giấu
nàng một nơi .
Chiến hòa sắp sẵn
hai bài,
Cậy tay thầy thợ mượn
người dò la .
1375. Bắn tin đến mặt
Tú bà,
Thua cơ mụ cũng cầu
hòa dám sao .
Rõ ràng của dẫn tay
trao,
Hoàn lương một thiếp
thân vào cửa công.
Công tư đôi lẽ đều
xong,
1380. Gót tiên phút đã
thoát vòng trần ai .
Một nhà sum họp trúc
mai,
Càng sâu nghĩa bể càng
dài tình sông.
Hương càng đượm lửa
càng nồng,
Càng sôi vẻ ngọc càng
lồng màu sen.
1385. Nửa năm hơi tiếng
vừa quen,
Sân ngô cành biếc đã
chen lá vàng.
Giậu thu vừa nảy giò
sương,
Gối yên đã thấy xuân
đường đến nơi .
Phong lôi nổi trận bời
bời,
1390. Nặng lòng e ấp
tính bài phân chia .
Quyết ngay biện bạch
một bề,
Dạy cho má phấn lại
về lầu xanh.
Thấy lời nghiêm huấn
rành rành,
Đánh liều sinh mới
lấy tình nài kêu .
1395. Rằng: Con biết tội
đã nhiều,
Đẫu rằng sấm sét
búa rìu cũng cam.
Trót vì tay đã nhúng
chàm,
Dại rồi còn biết khôn
làm sao đây .
Cùng nhau vả tiếng một
ngày,
400. ôm cầm ai nỡ dứt
dây cho đành.
Lượng trên quyết chẳng
thương tình,
Bạc đen thôi có tiếc
mình làm chi .
Thấy lời sắt đá tri
tri,
Sốt gan ông mới cáo
quì cửa công.
1405. Đất bằng nổi
sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu
hồng thôi tra .
Cùng nhau theo gót sai
nha,
Song song vào trước sân
hoa lạy quì.
Trông lên mặt sắt đen
sì,
1410. Lập nghiêm trước
đã ra uy nặng lời:
Gã kia dại nết chơi
bời,
Mà con người thế là
người đong đưa .
Tuồng chi hoa thải hương
thừa,
Mượn màu son phấn đánh
lừa con đen.
1415. Suy trong tình trạng
nguyên đơn,
Bề nào thì cũng chưa
yên bề nào .
Phép công chiếu án luận
vào .
Có hai đường ấy muốn
sao mặc mình.
Một là cứ phép gia
hình,
1420. Một là lại cứ
lầu xanh phó về.
Nàng rằng: đã quyết
một bề !
Nhện này vương lấy
tơ kia mấy lần.
Đục trong thân cũng
là thân.
Yếu thơ vâng chịu trước
sân lôi đình !
1425. Dạy rằng: Cứ phép
gia hình !
Ba cây chập lại một
cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu
oan,
Đào hoen quẹn má liễu
tan tác mày .
Một sân lầm cát đã
đầy,
1430. Gương lờ nước
thủy mai gầy vóc sương.
Nghĩ tình chàng Thúc
mà thương,
Nẻo xa trông thấy lòng
càng xót xa .
Khóc rằng: Oan khốc
vì ta !
Có nghe lời trước chẳng
đà lụy sau .
1435. Cạn lòng chẳng
biết nghĩ sâu .
Để ai trăng tủi hoa
sầu vì ai .
Phủ đường nghe thoảng
vào tai,
Động lòng lại gạn
đến lời riêng tây .
Sụt sùi chàng mới thưa
ngay,
1440. Đầu đuôi kể lại
sự ngày cầu thân:
Nàng đà tính hết xa
gần,
Từ xưa nàng đã biết
thân có rày .
Tại tôi hứng lấy một
tay,
Để nàng cho đến nỗi
này vì tôi .
1445. Nghe lời nói cũng
thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho
bài giải vi .
Rằng: Như hẳn có thế
thì
Trăng hoa song cũng thị
phi biết điều .
Sinh rằng: Chút phận
bọt bèo,
1450. Theo đòi vả cũng
ít nhiều bút nghiên.
Cười rằng: đã thế
thì nên !
Mộc già hãy thử một
thiên trình nghề.
Nàng vâng cất bút tay
đề,
Tiên hoa trình trước
án phê xem tường.
1455. Khen rằng: Giá đáng
Thịnh đường !
Tài này sắc ấy nghìn
vàng chưa cân !
Thật là tài tử giai
nhân,
Châu Trần còn có Châu
Trần nào hơn?
Thôi đừng rước dữ
cưu hờn,
1460. Làm chi lỡ nhịp
cho đòn ngang cung.
Đã đưa đến trước
cửa công,
Ngoài thì là lý song
trong là tình.
Dâu con trong đạo gia
đình,
Thôi thì dẹp nỗi bất
bình là xong.
1465. Kíp truyền sắm
sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió đuốc
hồng điểm sao .
Bày hàng cổ xúy xôn
xao,
Song song đưa tới trướng
đào sánh đôi .
Thương vì hạnh trọng
vì tài,
1470. Thúc ông thôi cũng
dẹp lời phong ba .
Huệ lan sực nức một
nhà,
Từng cay đắng lại
mặn mà hơn xưa
Mịt mù dặm cát đồi
cây,
Những vui rượu sớm
cờ trưa,
Đào đà phai thắm sen
vừa nẩy xanh.
1475. Trướng hồ vắng
vẻ đêm thanh,
E tình nàng mới bày
tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn chữ
tòng,
Đổi thay nhạn yến
đã hòng đầy niên.
Tin nhà ngày một vắng
tin,
1480. Mặn tình cát lũy
lạt tình tào khang.
Nghĩ ra thật cũng nên
đường,
Tăm hơi ai dễ giữ giàng
cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong
nhà,
ở vào khuôn phép nói
ra mối đường.
1485. E thay những dạ
phi thường,
Dễ dò rốn bể khôn
lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm
ròng,
Thế nào cũng chẳng
giấu xong được nàọ
Bấy chầy chưa tỏ tiêu
hao,
1490. Hoặc là trong có
làm sao chăng là?
Xin chàng kíp liệu lại
nhà,
Trước người đẹp
ý sau ta biết tình.
Đêm ngày giữ mức giấu
quanh,
Rày lần mai lữa như
hình chưa thông.
1495. Nghe lời khuyên nhủ
thong dong,
Đành lòng sinh mới quyết
lòng hồi trang.
Rạng ra gửi đến xuân
đường,
Thúc ông cũng vội giục
chàng ninh gia.
Tiễn đưa một chén
quan hà,
1500. Xuân đình thoắt
đã dạo ra cao đình.
Sông Tần một dải xanh
xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy
cành Dương quan.
Cầm tay dài ngắn thở
than,
Chia phôi ngừng chén
hợp tan nghẹn lời.
1505. Nàng rằng: Non nước
xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài
mới êm.
Dễ lòa yếm thắm trôn
kim,
Làm chi bưng mắt bắt
chim khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo
bòng,
1510. Đến nhà trước
liệu nói sòng cho minh.
Dù khi sóng gió bất
tình,
Lớn ra uy lớn tôi đành
phận tôi.
Hơn điều giấu ngược
giấu xuôi.
Lại mang những việc
tày trời đến sau.
1515. Thương nhau xin nhớ
lời nhau,
Năm chầy cũng chẳng
đi đâu mà chầy.
Chén đưa nhớ bữa hôm
nay,
Chén mừng xin đợi ngày
này năm sau!
Người lên ngựa kẻ
chia bào,
1520. Rừng phong thu đã
nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn
chinh an,
Trông người đã khuất
mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng
năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một
mình xa xôi.
1525. Vầng trăng ai xẻ
làm -dôi,
Nửa in gối chiếc, nửa
soi dặm trường.
Kể chi những nỗi dọc
đường,
Buồn trong này nỗi chủ
trương ở nhà:
Vốn dòng họ Hoạn danh
gia,
1530. Con quan Lại bộ
tên là Hoạn thư.
Duyên đằng thuận nẻo
gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe
tơ những ngày.
ở ăn thì nết cũng
hay,
Nói điều ràng buộc
thì tay cũng già.
1535. Từ nghe vườn mới
thêm hoa,
Miệng người đã lắm
tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng
nồng,
Trách người đen bạc
ra lòng trăng hoa:
Ví bằng thú thật cùng
ta,
1540. Cũng dung kẻ dưới
mới là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy
nền,
Tốt chi mà rước tiếng
ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu
quanh,
Làm chi những thói trẻ
ranh nực cười!
1545. Tính rằng cách mặt
khuất lời,
Giấu ta ta cũng liệu
bài giấu cho!
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén
có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được
nhau,
1550. Làm cho đầy đọa
cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn
tiền,
Cho người thăm ván bán
thuyền biết tay.
Nỗi lòng kín chẳng
ai hay,
Ngoài tai để mặc gió
bay mái ngoài.
1555. Tuần sau bỗng thấy
hai người,
Mách tin ý cũng liệu
bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận
đùng đùng:
Gớm tay thêu dệt ra
lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như
ai,
1560. Điều này hẳn miệng
những người thị phi!
Vội vàng xuống lệnh
ra uy,
Đứa thì vả miệng
đứa thì bẻ răng.
Trong ngoài kín mít như
bưng.
Nào ai còn dám nói năng
một lời!
1565. Buồng đào khuya
sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói
cười như không.
Đêm ngày lòng những
dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu
hồng xuống yên.
Lời tan hợp nỗi hàn
huyên,
1570. Chữ tình càng mặn
chữ duyên càng nồng.
Tẩy trần vui chén thong
dong,
Nỗi lòng ai ở trong
lòng mà ra.
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân
la giãi bày.
1575. Mấy phen cười nói
tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy
may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng
bình,
Nào ai có khảo mà mình
đã xưng?
Những là e ấp dùng
dằng,
1580. Rút dây sợ nữa
động rừng lại thôi.
Có khi vui chuyện mua
cười,
Tiểu thư lại giở những
lời đâu đâu.
Rằng: Trong ngọc đá
vàng thau,
Mười phần ta đã tin
nhau cả mười.
1585. Khen cho những chuyện
dông dài,
Bướm ong lại đặt
những lời nọ kia.
Thiếp dù bụng chẳng
hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ lại
bia miệng cười!
Thấy lời thủng thỉnh
như chơi,
1590. Thuận lời chàng
cũng nói xuôi đỡ đòn.
Những là cười phấn
cợt son,
Đèn khuya chung bóng trăng
tròn sánh vai.
Thú quê thuần hức bén
mùi,
Giếng vàng đã rụng
một vài lá ngô.
1595. Chạnh niềm nhớ
cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy
mùa gió trăng.
Tình riêng chưa dám rỉ
răng,
Tiểu thư trước đã
liệu chừng nhủ qua:
Cách năm mây bạc xa
xa,
1600. Lâm Tri cũng phải
tính mà thần hôn.
Được lời như cởi
tấc son,
Vó câu chẳng ruổi nước
non quê người.
Long lanh đáy nước in
trời,
Thành xây khói biếc
non phơi bóng vàng.
1605. Roi câu vừa gióng
dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận
đường quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi
tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi
mình chịu đen.
Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ
hờn ghen,
1610. Xấu chàng mà có
ai khen chi mình!
Vậy nên ngảnh mặt
làm thinh,
Mưu cao vốn đã rắp
ranh những ngày.
Lâm Tri đường bộ tháng
chầy,
Mà đường hải đạo
sang ngay thì gần.
1615. Dọn thuyền lựa
mặt gia nhân,
Hãy đem dây xích buộc
chân nàng về.
Làm cho cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề
cho coi!
Trước cho bõ ghét những
người,
1620. Sau cho để một
trò cười về sau.
Phu nhân khen chước rất
mầu,
Chiều con mới dạy mặc
dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo
mây,
Khuyển ưng lại chọn
một bầy côn quang.
1625. Dặn dò hết các
mọi đường,
Thuận phong một lá vượt
sang bến Tề.
Nàng từ chiếc bóng
song the,
Đường kia nỗi nọ
như chia mối sầu.
Bóng đâu đã xế ngang
đầu,
1630. Biết đâu ấm lạnh
biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang
vai,
Nào lời non nước nào
lời sắt son.
Sắn bìm chút phận cỏn
con,
Khuôn duyên biết có
vuông tròn cho chăng?
1635. Thân sao nhiều nỗi
bất bằng,
Liều như cung Quảng
ả Hằng nghĩ nao!
Đêm thu gió lọt song
đào,
Nửa vành trăng khuyết
ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước
Phật đài,
1640. Nỗi lòng khấn chửa
cạn lời vân vân.
Dưới hoa dậy lũ ác
nhân,
ầm ầm khốc quỷ kinh
thần mọc ra.
Đầy sân gươm tuốt
sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa
biết là làm sao.
1645. Thuốc mê đâu đã
rưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm
bao biết gì.
Vực ngay lên ngựa tức
thì,
Phòng đào viện sách
bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên
sông,
1650. Đem vào để đó
lộn sòng ai hay?
Tôi đòi phách lạc hồn
bay,
Pha càn bụi cỏ gốc
cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần
quanh,
Chợt trông ngọn lửa
thất kinh rụng rời.
1655. Tớ thầy chạy thẳng
đến nơi,
Tơi bời tưới lửa
tìm người lao xao.
Gió cao ngọn lửa càng
cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng
nào thấy đâu!
Hớt hơ hớt hải nhìn
nhau,
1660. Giếng sâu bụi rậm
trước sau tìm quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng
hương,
Trong tro thấy một đống
xương cháy tàn.
Tình ngay ai biết mưu
gian,
Hẳn nàng thôi lại còn
bàn rằng ai!
1665. Thúc ông sùi sụt
ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương
người nết na.
Di hài nhặt gói về
nhà,
Nào là khâm liệm nào
là tang trai.
Lễ thường đã đủ
một hai,
1670. Lục trình chàng
cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu
thơ,
Tro than một đống nắng
mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung
đường,
Linh sàng bài vị thờ
nàng ở trên.
1675. Hỡi ôi nói hết
sự duyên,
Tơ tình đứt ruột lửa
phiền cháy gan!
Gieo mình vật vã khóc
than:
Con người thế ấy thác
oan thế này.
Chắc rằng mai trúc lại
vầy,
1680. Ai hay vĩnh quyết
là ngày đưa nhau!
Thương càng nghĩ nghĩ
càng đau,
Dễ ai lấp thảm quạt
sầu cho khuây.
Gần miền nghe có một
thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay
thông huyền.
1685. Trên tam đảo dưới
cửu tuyền,
Tìm đâu thì cũng biết
tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước
sang,
Xin tìm cho thấy mặt
nàng hỏi han.
Đạo nhân phục trước
tĩnh đàn,
1690. Xuất thần giây
phút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói
tường:
Mặt nàng chẳng thấy
việc nàng đã tra.
Người này nặng kiếp
oan gia,
Còn nhiều nợ lắm sao
đà thoát cho!
1695. Mệnh cung đang mắc
nạn to,
Một năm nữa mới thăm
dò được tin.
Hai bên giáp mặt chiền
chiền,
Muốn nhìn mà chẳng
dám nhìn lạ thay!
Điều đâu nói lạ dường
này,
1700. Sự nàng đã thế
lời thầy dám tin!
Chẳng qua đồng cốt
quàng xiên,
Người đâu mà lại
thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm
ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy
lần gặp tiên.
1705. Nước trôi hoa rụng
đã yên,
Hay đâu địa ngục ở
miền nhân gian.
Khuyển ưng đã đắt
mưu gian,
Vực nàng đưa xuống
để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh
suyền,
1710. Đè chừng huyện
Tích băng miền vượt sang.
Dỡ đò lên trước sảnh
đường,
Khuyển ưng hai đứa
nộp nàng dâng công.
Vực nàng tạm xuống
môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp
giấc nồng chưa phai.
1715. Hoàng lương chợt
tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu mất lâu
đài nào đây?
Bàng hoàng giở tỉnh
giở say,
Sảnh đường mảng tiếng
đòi ngay lên hầu.
A hoàn trên dưới giục
mau,
1720. Hãi hùng nàng mới
theo sau một người.
Ngước trông tòa rộng
dãy dài,
Thiên Quan Trủng Tể
có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai
bên,
Giữa giường thất bảo
ngồi trên một bà.
1725. Gạn gùng ngọn hỏi
ngành tra,
Sự mình nàng phải cứ
mà gửi thưa.
Bất tình nổi trận
mây mưa,
Mắng rằng: Những giống
bơ thờ quên thân!
Con này chẳng phải thiện
nhân,
1730. Chẳng phường trốn
chúa thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả gà
đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng
xong bề nào.
Đã đem mình bán cửa
tao,
Lại còn khủng khỉnh
làm cao thế này.
1735. Nào là gia pháp nọ
bay!
Hãy cho ba chục biết
tay một lần.
A hoàn trên dưới dạ
ran,
Dẫu rằng trăm miệng
không phân lẽ nào.
Trúc côn ra sức đập
vào,
1740. Thịt nào chẳng
nát gan nào chẳng kinh.
Xót thay đào lý một
cành,
Một phen mưa gió tan
tành một phen.
Hoa nô truyền dạy đổi
tên,
Buồng the dạy ép vào
phiên thị tì.
1745. Ra vào theo lũ thanh
y,
Dãi dầu tóc rối da
chì quản bao.
Quản gia có một mụ
nào,
Thấy người thấy nết
ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc
thang,
1750. Đem lời phương
tiện mở đường hiếu sinh.
Dạy rằng: May rủi đã
đành,
Liểu bồ mình giữ lấy
mình cho hay.
Cũng là oan nghiệp chi
đây,
Sa cơ mới đến thế
này chẳng dưng.
1755. Ở đây tai vách
mạch rừng,
Thấy ai người cũ cũng
đừng nhìn chi.
Kẻo khi sấm sét bất
kỳ,
Con ong cái kiến kêu
gì được oan?
Nàng càng giọt ngọc
như chan,
1760. Nỗi lòng luống
những bàng hoàng niềm tây:
Phong trần kiếp chịu
đã đầy,
Lầm than lại có thứ
này bằng hai.
Phận sao bạc chẳng
vừa thôi,
Khăng khăng buộc mãi
lấy người hồng nhan.
1765. Đã đành túc trái
tiền oan,
Cũng liều ngọc nát
hoa tàn mà chi.
Những là nương náu
qua thì,
Tiểu thư phải buổi
mới về ninh gia.
Mẹ con trò chuyện lân
la,
1770. Phu nhân mới gọi
nàng ra dạy lời:
Tiểu thư dưới trướng
thiếu người,
Cho về bên ấy theo đòi
lầu trang.
Lãnh lời nàng mới theo
sang,
Biết đâu địa ngục
thiên đàng là đâu.
1775. Sớm khuya khăn mắt
lược đầu,
Phận con hầu giữ con
hầu dám sai.
Phải đêm êm ả chiều
trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề
chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa
dây,
1780. Nỉ non thánh thót
dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương
tài,
Khuôn uy dường cũng
bớt vài bốn phân.
Cửa người đày đọa
chút thân,
Sớm ngơ ngẩn bóng đêm
năn nỉ lòng.
1785. Lâm Tri chút nghĩa
đèo bồng,
Nước bèo để chữ
tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng
một màu,
Trông vời cố quốc
biết đâu là nhà.
Lần lần tháng trọn
ngày qua,
1790. Nỗi gần nào biết
đường xa thế này.
Lâm Tri từ thuở uyên
bay,
Buồng không thương kẻ
tháng ngày chiếc thân.
Mày ai trăng mới in ngần,
Phần thừa hương cũ
bội phần xót xa.
1795. Sen tàn cúc lại
nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông
đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố
nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây
dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh
gia hương,
1800. Nhớ quê chàng lại
tìm đường thăm quê.
Tiểu thư đón cửa giãi
giề,
Hàn huyên vừa cạn mọi
bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức
là,
Buồng trong truyền gọi
nàng ra lạy mừng.
1805. Bước ra một bước
một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ
chừng nẻo xa:
Phải chăng nắng quáng
đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng
là Thúc Sinh?
Bây giờ tình mới rõ
tình,
1810. Thôi thôi đã mắc
vào vành chẳng sai.
Chước đâu có chước
lạ đời?
Người đâu mà lại
có người tinh ma?
Rõ ràng thật lứa đôi
ta,
Làm ra con ở chúa nhà
đôi nơi.
1815. Bề ngoài thơn thớt
nói cười,
Mà trong nham hiểm giết
người không dao.
Bây giờ đất thấp
trời cao,
ăn làm sao nói làm sao
bây giờ?
Càng trông mặt càng
ngẩn ngơ,
1820. Ruột tằm đòi đoạn
như tơ rối bời.
Sợ uy dám chẳng vâng
lời,
Cúi đầu nép xuống
sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn
siêu:
Thương ơi chẳng phải
nàng Kiều ở đây?
1825. Nhân làm sao đến
thế này?
Thôi thôi ta đã mắc
tay ai rồi!
Sợ quen dám hở ra lời,
Không ngăn giọt ngọc
sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt
hỏi tra:
1830. Mới về có việc
chi mà động dong?
Sinh rằng hiếu phục
vừa xong,
Suy lòng trắc dĩ đau
lòng chung thiên.
Khen rằng: Hiếu tử
đã nên!
Tẩy trần mượn chén
giải phiền đêm thu.
1835. Vợ chồng chén tạc
chén thù,
Bắt nàng đứng chực
trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt
đến lời,
Bắt quì tận mặt bắt
mời tận tay.
Sinh càng như dại như
ngây,
1840. Giọt dài giọt ngắn
chén đầy chén vơi.
Ngảnh đi chợt nói chợt
cười,
Cáo say chàng đã giạm
bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét:
Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn
thì ta có đòn.
1845. Sinh càng nát ruột
tan hồn,
Chén mời phải ngậm
bồ hòn ráo ngay.
Tiểu thư cười nói
tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu
lại bày trò chơi.
Rằng: Hoa nô đủ mọi
tài,
1850. Bản đàn thử dạo
một bài chàng nghe.
Nàng đà tán hoán tê
mê,
Vâng lời ra trước bình
the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như
than,
Khiến người trên tiệc
cũng tan nát lòng.
1855. Cùng chung một tiếng
tơ đồng,
Người ngoài cười nụ
người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn
cầm,
Cúi đầu chàng những
gạt thầm giọt Tương.
Tiểu thư lại thét lấy
nàng:
1860. Cuộc vui gảy khúc
đoạn trường ấy chi ?
Sao chẳng biết ý tứ
gì ?
Cho chàng buồn bã tội
thì tại ngươi.
Sinh càng thảm thiết
bồi hồi,
Vội vàng gượng nói
gượng cười cho qua.
1865. Giọt rồng canh đã
điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường
đà can tâm.
Lòng riêng khấp khởi
mừng thầm:
Vui này đã bõ đau ngầm
xưa nay.
Sinh thì gan héo ruột
đầy,
1870. Nỗi lòng càng nghĩ
càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối
loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn
chong canh dài:
Bây giờ mới rõ tăm
hơi,
Máu ghen đâu có lạ
đời nhà ghen!
1875. Chước đâu rẽ
thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy ai
nhìn được ai.
Bây giờ một vực một
trời,
Hết điều khinh trọng
hết lời thị phi.
Nhẹ như bấc nặng như
chì,
1880. Gỡ cho ra nữa còn
gì là duyên ?
Lỡ làng chút phận thuyền
quyên,
Bể sâu sóng cả có
tuyền được vay ?
Một mình âm ỉ đêm
chày,
Đĩa dầu vơi nước
mắt đầy năm canh.
1885. Sớm trưa hầu hạ
đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt
đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa
qua:
Phải khi mình lại xót
xa nỗi mình.
Tiểu thư hỏi lại Thúc
Sinh:
1890. Cậy chàng tra lấy
thực tình cho nao!
Sinh đà rát ruột như
bào,
Nói ra chẳng tiện trông
vào chẳng đang!
Những e lại lụy đến
nàng,
Đánh liều mới sẽ
lựa đường hỏi tra.
1895. Cúi đầu quỳ trước
sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng
qua một tờ.
Diện tiền trình với
Tiểu thư,
Thoạt xem dường có
ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc
Sinh,
1900. Rằng: Tài nên trọng
mà tình nên thương!
Ví chăng có số giàu
sang,
Giá này dẫu đúc nhà
vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền
quyên,
Hữu tài thương nỗi
vô duyên lạ đời!
1905. Sinh rằng: Thật
có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh
một người nào vay!
Nghìn xưa âu cũng thế
này,
Từ bi âu liệu bớt
tay mới vừa.
Tiểu thư rằng: ý trong
tờ,
1910. Rắp đem mệnh bạc
xin nhờ cửa Không.
Thôi thì thôi cũng chiều
lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong
vòng bước ra.
Sẵn Quan âm các vườn
ta,
Có cây trăm thước,
có hoa bốn mùa.
1915. Có cổ thụ, có
sơn hồ,
Cho nàng ra đó giữ chùa
chép kinh.
Tàng tàng trời mới
bình minh,
Hương hoa, ngũ cúng,
sắm sanh lễ thường.
Đưa nàng đến trước
Phật đường,
1920. Tam qui, ngũ giới,
cho nàng xuất gia.
áo xanh đổi lấy cà
sa,
Pháp danh lại đổi tên
ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya sắm đủ dầu
đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai
tên hương trà.
1925. Nàng từ lánh gót
vườn hoa,
Dường gần rừng tía,
dường xa bụi hồng.
Nhân duyên đâu lại
còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn,
tủi hồng thì thôi.
Phật tiền thảm lấp
sầu vùi,
1930. Ngày pho thủ tự,
đêm nồi tâm hương.
Cho hay giọt nước cành
dương,
Lửa lòng tưới tắt
mọi đường trần duyên.
Nâu sồng từ trở màu
thiền,
Sân thu trăng đã vài
phen đứng đầu,
1935. Cửa thiền, then
nhặt, lưới mau,
Nói lời trước mặt,
rời châu vắng người.
Gác kinh viện sách đôi
nơi,
Trong gang tấc lại gấp
mười quan san.
Những là ngậm thở
nuốt than,
1940. Tiểu thư phải buổi
vấn an về nhà.
Thừa cơ, sinh mới lẻn
ra,
Xăm xăm đến mé vườn
hoa với nàng.
Sụt sùi giở nỗi đoạn
tràng,
Giọt châu tầm tã đẫm
tràng áo xanh:
1945. Đã cam chịu bạc
với tình,
Chúa xuân để tội một
mình cho hoa!
Thấp cơ thua trí đàn
bà,
Trông vào đau ruột nói
ra ngại lời.
Vì ta cho lụy đến người,
1950. Cát lầm ngọc trắng,
thiệt đời xuân xanh!
Quản chi lên thác xuống
ghềnh,
Cũng toan sống thác với
tình cho xong.
Tông đường chút chửa
cam lòng,
Nghiến răng bẻ một
chữ đồng làm hai.
1955. Thẹn mình đá nát
vàng phai,
Trăm thân dễ chuộc
một lời được sao?
Nàng rằng: Chiếc bách
sóng đào,
Nổi chìm cũng mặc lúc
nào rủi may!
Chút thân quằn quại
vũng lầy,
1960. Sống thừa còn tưởng
đến rày nữa sao?
Cũng liều một giọt
mưa rào,
Mà cho thiên hạ trông
vào cũng hay!
Xót vì cầm đã bén
dây,
Chẳng trăm năm cũng
một ngày duyên ta.
1965. Liệu bài mở cửa
cho ra,
ấy là tình nặng ấy
là ân sâu!
Sinh rằng: Riêng tưởng
bấy lâu,
Lòng người nham hiểm
biết đâu mà lường.
Nữa khi giông tố phũ
phàng,
1970. Thiệt riêng đó
cũng lại càng cực đây.
Liệu mà xa chạy cao
bay,
ái ân ta có ngần này
mà thôi!
Bâu giờ kẻ ngược
người xuôi,
Biết bao giờ lại nối
lời nước non?
1975. Dẫu rằng sông cạn
đá mòn,
Con tằm đến thác cũng
còn vướng tơ!
Cùng nhau kể lể sau
xưa,
Nói rồi lại nói, lời
chưa hết lời.
Mặt trông tay chẳng
nỡ rời,
1980. Hoa tì đã động
tiếng người nẻo xa.
Nhận ngừng, nuốt tủi,
lảng ra,
Tiểu thư đâu đã rẽ
hoa bước vào.
Cười cười, nói nói
ngọt ngào,
Hỏi: Chàng mới ở chốn
nào lại chơi?
1985. Dối quanh Sinh mới
liệu lời:
Tìm hoa quá bước, xem
người viết kinh.
Khen rằng: Bút pháp đã
tinh,
So vào với thiếp Lan
đình nào thua!
Tiếc thay lưu lạc giang
hồ,
1990. Nghìn vàng, thật
cũng nên mua lấy tài!
Thiền trà cạn chén
hồng mai,
Thong dong nối gót thư
trai cùng về.
Nàng càng e lệ ủ ê,
Rỉ tai, hỏi lại hoa
tì trước sau.
1995. Hoa rằng: Bà đã
đến lâu,
Rón chân đứng nép độ
đâu nữa giờ.
Rành rành kẽ tóc chân
tơ,
Mấy lời nghe hết đã
dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ,
tình thương,
2000. Nỗi ông vật vã,
nỗi nàng thở than.
Ngăn tôi đứng lại
một bên,
Chán tai rồi mới bước
lên trên lầu.
Nghe thôi kinh hãi xiết
đâu:
Đàn bà thế ấy thấy
âu một người!
2005. ấy mới gan ấy
mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn
gai rụng rời!
Người đâu sâu sắc
nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra
người bó tay!
Thực tang bắt được
dường này,
2010. Máu ghen ai cũng chau
mày nghiến răng.
Thế mà im chẳng đãi
đằng,
Chào mời vui vẻ nói
năng dịu dàng!
Giận dầu ra dạ thế
thường,
Cười dầu mới thực
khôn lường hiểm sâu!
2015. Thân ta ta phải lo
âu,
Miệng hùm nọc rắn
ở đâu chốn này!
Ví chăng chắp cánh cao
bay,
Rào cây lâu cũng có
ngày bẻ hoa!
Phận bèo bao quản nước
sa,
2020. Lênh đênh đâu nữa
cũng là lênh đênh.
Chỉn e quê khách một
mình,
Tay không chưa dễ tìm
vành ấm no!
Nghĩ đi nghĩ lại quanh
co,
Phật tiền sẵn có mọi
đồ kim ngân.
2025. Bên mình giắt để
hộ thân,
Lần nghe canh đã một
phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường
hoa,
Lần đường theo bóng
trăng tà về tây.