Trở Về  ]           [ Trang chủ ]          [ Tác giả ]
Đỗ Đình Tuân 
 
DỊCH THƠ CHU VĂN AN
1. Đề Dương công Thuỷ Hoa đình 2. Cung hoạ ngự chế động chương
3. Giang đình tác 4. Linh sơn tạp hứng
5. Miết trì 6. Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính
7. Sơ hạ 8. Thanh Lương giang
9. Thôn Nam sơn tiểu khế 10 Thứ vận tặng Thuỷ Vân đạo nhân
11. Vọng Thái Lăng 12. Xuân đán
Bài 1

題 揚 公 水 華 亭
Đề Dương công Thuỷ Hoa đình

上 人 遠 公 裔,
Thượng nhân Viễn công duệ,
朗 悟 有 高 識 。
Lãng ngộ hữu cao thức.
屢 結 白 社 盟,
Lũ kết bạch xã minh,
為 愛 青 蓮 色。
Vị ái thanh liên sắc.
方 塘 貯 碧 漪,
Phương đường trữ bích y,
環 以 芙 蕖 植 。
Hoàn dĩ phù cừ thực.
上 構 水 華 亭,
Thượng cấu thuỷ hoa đình,
意 與 蓮 比 德 。
Ý dữ liên tỷ đức.
好 風 時 一 來,
Hảo phong thời nhất lai,
滿 座 聞 芳 馥 。
Mãn toạ văn phương phức.
隱 幾 觀 眾 妙,
Ẩn kỷ quan chúng diệu,
悠 然 心 自 得 。
Du nhiên tâm tự đắc.
不 知 清 淨 身,
Bất tri thanh tĩnh thân,
已 在 荷 華 側 。
Dĩ tại hà hoa trắc.
明 月 相 友 朋,
Minh nguyệt tương hữu bằng,
閒 雲 同 偃 息 。
Nhàn vân đồng yển tức.
渴 傾 珠 露 飲,
Khát khuynh châu lộ ẩm,
飢 摘 玉 房 食 。
Cơ trích ngọc phòng thực.
回 頭 謝 世 紛,
Hồi đầu tạ thế phân
逍 遙 遊 八 極 。
Tiêu dao du bát cực.

朱文安
Chu Văn An
Dịch nghĩa:

Đề đình Thuỷ Hoa của Dương Công

Thượng nhân là giòng dõi của Viễn công,
Hiểu biết một cách sáng suốt, có kiến thức cao.
Luôn kết lời minh ước ở Bạch Xã,
Vì yêu sắc sen xanh.
Ao vuông chứa đựng nước trong biếc,
Xung quanh trồng toàn sen.
Trên ao dựng ngôi đình Thuỷ Hoa,
Ý chừng muốn sánh đức với sen.
Gió mát thường xuyên thổi tới,
Làm thơm ngát khắp ngôi đình.
Tựa bên ghế để quan sát mọi điều huyền diệu,
Lâng lâng cảm thấy thoải mái trong lòng.
Chẳng biết thân thanh tịnh,
Đã ở bên cạnh đoá hoa sen.
Trăng sáng cùng làm bạn với mình,
Mây nhàn cùng ta nghỉ ngơi.
Khát thì nghiêng rót những hạt sương châu để uống,
Đói thì lấy những chùm quả bằng ngọc mà ăn.
Ngoảnh lại quên hết mọi rắc rối ở đời,
Để nhởn nhơ vui chơi tám cõi.

Dịch thơ

Hậu duệ của Viễn Công
Sáng suốt lại cao thức
Cùng Bạch xã kết ước
Vì yêu sắc sen xanh
Ao vuông nước trong biếc
Xung quanh trồng toàn sen
Trên dựng Thủy Hoa đình
Ý cùng sen sánh đức
Thường xuyên cơn gió mát
Làm thơm ngát cả vùng
Xem ngắm mọi huyền diệu
Thoải mái lòng lâng lâng
Đâu biết thân thanh tịnh
Đang ở dìa hoa sen
Trăng sáng kết bầu bạn
Mây nhàn cùng nghỉ ngơi
Khát nghiêng sương ngọc uống
Đói ngắt hạt ngọc xơi
Quên hết mọi sự đời
Tám cõi nhớn nhơ chơi.
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 2

恭 和 御 制 洞 章
Cung hoạ ngự chế động chương

庭 舞 胎 禽 雲 掩 關,
Đình vũ thai cầm vân yểm quan,
露 華 嚥 罷 覺 清 寬 。
Lộ hoa yến bãi giác thanh khoan.
碧 桃 華 下 渾 無 事,
Bích đào hoa hạ hồn vô sự,
時 倩 東 風 掃 石 壇 。
Thời thiến đông phong tảo thạch đàn.

朱 文 安 
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Kính hoạ thơ vua
Hạc múa ở sân, mây che ngoài cửa,
Nuốt hoa sương rồi cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng.
Dưới hoa bích đào lòng thanh thản,
Thỉnh thoảng mượn ngọn gió đông quét trên đàn đá.

Dịch thơ

Trước sân hạc múa cửa mây giăng
Vừa nuốt sương hoa thấy nhẹ nhàng
Dưới gốc bích đào lòng chẳng bợn
Gió đông chốc chôc quét lên đàn.
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 3

江 亭 作
Giang đình tác

江 亭 獨 立 數 歸 舟,
Giang đình độc lập sổ quy châu,
風 急 灘 前 一 笛 秋 。
Phong cấp than tiền nhất địch thu.
斜 日 吟 殘 紅 淡 淡,
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm,
暮 天 望 斷 碧 悠 悠 。
Mộ thiên vọng đoạn bích du du.
功 名 已 落 荒 唐 夢,
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
湖 海 聊 為 汗 漫 遊 。
Hồ hải lưu vi hãn mạn du.
自 去 自 來 渾 不 管,
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
滄 波 萬 頃 羨 飛 鷗 。
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.

朱 文 安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Cảm tác ở đình bên sông
Đứng một mình ở Giang Đình đếm thuyền về,
Trước ghềnh, gió gấp, một tiếng sáo gợi cảm thu.
Thơ đã tàn, mặt trời xế bóng, ánh hồng nhàn nhạt,
Trông suốt trời chiều, màu biếc mênh mông.
Công danh đã rơi vào giấc mộng hoang đường,
Tạm dạo chơi lang thang miền hồ hải.
Đi lại tự mình, chẳng gì trói buộc,
Thèm cảnh chim âu bay liệng trên muôn khoảng sóng xanh.

Dịch thơ

Bên sông mình đứng đếm thuyền qua
Gió gấp triền đê tiếng sáo hòa
Bóng xế ngâm tàn hồng nhạt nhạt
Trời chiều trông khắp biếc bao la
Công danh đã trở thành hoang mộng
Dạo bước lang thang thú hải hà
Tự tới tự lui không bó buộc
Cánh âu bay lượn khoảng trời xa.
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 4

靈 山 雜 興
Linh sơn tạp hứng

萬 疊 青 山 簇 畫 屏,
Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình,
斜 陽 淡 抹 半 溪 明 。
Tà dương đạm mạt bán khê minh.
翠 蘿 徑 裏 無 人 到,
Thuý la kính lý vô nhân đáo,
山 鵲 啼 煙 時 一 聲 。
Sơn thước đề yên thời nhất thanh.

朱文安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Vịnh cảnh núi Chí Linh
Muôn lớp núi xanh tụ lại như bức bình phong vẽ,
Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe.
Trong lối cỏ biếc, không người đến,
Thỉnh thoảng một tiếng chim thước kêu trong khói mù.

Dịch thơ

Núi xa lớp lớp như tranh
Con đường cỏ rậm vắng tanh bóng người
Nắng chiều nhạt nửa khe soi
Tiếng chim trong khói cất rồi …lại im…
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 5

鱉 池
Miết trì

水 月 橋 邊 弄 夕 暉,
Thuỷ nguyệt kiều biên lộng tịch huy,
荷 花 荷 葉 靜 相 依 。
Hà hoa hà diệp tịnh tương y.
魚 遊 古 沼 龍 何 在,
Ngư du cổ chiểu long hà tại?
雲 滿 空 山 鶴 不 歸 。
Vân mãn không sơn hạc bất quy.
老 桂 隨 風 香 石 路,
Lão quế tuỳ phong hương thạch lộ,
嫩 苔 著 水 沒 松 扉 。
Nộn đài trước thuỷ một tùng phi.
寸 心 殊 未 如 灰 土,
Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
聞 說 先 皇 淚 暗 揮 。
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.

朱 文 安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Ao ba ba *
Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng chiều hôm,
Hoa sen, lá sen, yên lặng tựa nhau.
Cá bơi ao cổ, rồng ở chốn nào?
Mây đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về!
Mùi quế già bay theo gió làm thơm ngát con đường đá,
Rêu non đẫm nước che lấp cánh cửa thông.
Tấc lòng này vẫn chưa nguội lạnh như tro đất,
Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ
(*Một ao cổ có nuôi thả ba ba trong vùng núi Phượng Hoàng. Nay không còn.)

Dịch thơ

Trăng nước như nô giỡn nắng tà,
Im lìm sen lá tựa sen hoa.
Cá bơi ao cổ rồng đâu tá?
Mây phủ non không hạc vắng nhà.
Cây quế già thơm đường đá ngát;
Đám rêu non phủ cửa thông nhòa.
Tấc lòng chưa nguội như tro đất,
Nhắc đến Tiên Hoàng lệ ứa sa.
    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 6.

月 夕 步 仙 遊 山 松 徑
Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính

緩 緩 步 松 堤,
Hoãn hoãn bộ tùng đê,
孤 村 淡 靄 迷 。
Cô thôn đạm ái mê.
潮 回 江 笛 迥,
Triều hồi, giang địch quýnh,
天 闊 樹 雲 低 。
Thiên khoát, thụ vân đê.
宿 鳥 翻 清 露,
Túc điểu phiên thanh lộ,
寒 魚 躍 碧 溪 。
Hàn ngư dược bích khê.
吹 笙 何 處 去,
Xuy sinh hà xứ khứ,
寂 寞 故 山 西 。
Tịch mịch cố sơn tê (tây)?

朱文安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Ðêm trăng dạo bước trên đường thông

Thong thả dạo bước trên con đê trồng thông,
Xóm vắng mờ trong làn khói nhạt.
Nước triều xuống, tiếng sáo bên sông xa vẳng,
Trời rộng, mây là là ngọn cây.
Chim đêm cựa mình trong làn sương trong,
Cá lạnh nhảy trong khe biếc.
Người thổi sênh đi nơi đâu,
Phía tây núi cũ vắng vẻ?

Dịch thơ

Bờ đê đủng đỉnh đường thông
Xóm thôn vắng vẻ mây lồng lơ mơ 
Triều lui tiếng sáo sông đưa
Trời cao mây thấp mịt mờ ngọn cây
Chim đêm cựa giọt sương lay
Khe sâu biếc lạnh cá bầy lội bơi
Thổi sênh người đã đâu rồi
Phía tây núi cũ một trời vắng không.
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 7

初 夏
Sơ hạ

山 宇 寥 寥 晝 夢 回,
Sơn vũ liêu liêu trú mộng hồi,
微 涼 一 線 起 庭 梅 。
Vi lương nhất tuyến khởi đình mai.
燕 尋 故 壘 相 將 去,
Yến tầm cố luỹ tương tương khứ,
蟬 咽 新 聲 陸 續 來 。
Thiền yết tân thanh lục tục lai.
點 水 溪 蓮 無 俗 態,
Điểm thuỷ khê liên vô tục thái,
出 籬 竹 筍 不 凡 材 。
Xuất ly trúc duẩn bất phàm tài.
棲 梧 靜 極 還 成 懶,
Thê ngô tĩnh cực hoàn thành lãn,
案 上 殘 書 風 自 開 。
Án thượng tàn thư phong tự khai.

朱文安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Đầu hạ

Nhà trên nay vắng vẻ, ngủ trưa tỉnh dậy
Một cơn gió mát nhẹ thổi vào cây mai trước sân
Chim én lũ lượt kéo nhau đi tìm tổ cũ
Ve sầu lục tục bay về, cất tiếng kêu đầu mùa
Hoa sen dưới khe nhấp nhô mặt nước, vẻ thanh tao thoát tục
Chòm măng vươn ra ngoài hàng rào, khác loài tầm thường
Tựa cây ngô đồng, ngồi im lặng mãi trở thành lười biếng
Gió đâu lật mở cuốn sách nát đặt ở trên bàn

Dịch thơ

Nhà non vừa tỉnh giấc ngày,
Trước sân gió mát thổi lay cành hòe.
Én tìm tổ cũ bay đi,
Ve kêu mùa mới đã về râm ran.
Sen khe không bợn chút phàm,
Măng vươn ngoài nội ngang tàng thẳng ngay.
Phượng hoàng lặng lẽ cành cây,
Trên yên sách nát gió vầy mở xem.
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 8

清 涼 江
Thanh Lương giang

山 腰 一 抹 夕 陽 橫,
Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
兩 兩 漁 舟 畔 岸 行 。
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
獨 立 清 涼 江 上 望,
Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng,
寒 風 颯 颯 嫩 潮 生 。
Hàn phong táp táp nộn triều sinh.

朱 文 安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Sông Thanh Lương

Một vệt bóng chiều vắt ngang sườn núi,
Dọc theo bờ sông, thuyền câu đi từng đôi một.
Đứng một mình trên sông Thanh Lương ngắm cảnh,
Gió lạnh vi vút, nước triều dâng lên.

Dịch thơ

Sườn non vệt nắng vắt ngang,
Trên sông xuôi mái đôi hàng thuyền câu.
Một mình ngắm cảnh giờ lâu,
Vi vu gió lạnh dòng sâu dậy triều.
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 9

村 南 山 小 憩
Thôn Nam sơn tiểu khế

閑 身 南 北 片 雲 輕,
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
半 枕 清 風 世 外 情 。
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
佛 界 清 幽 塵 界 遠,
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
庭 前 噴 血 一 鶯 鳴 。
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.

朱 文 安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam

Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp nam bắc,
Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời.
Cõi phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.

Dịch thơ

Thân nhàn nam bắc áng mây qua
Nửa gối gió trăng mộng hải hà
Oanh hót trước sân hoa đỏ máu
Thanh u cõi Phật cõi đời xa.

     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 10

次 韻 贈 水 雲 道 人
Thứ vận tặng Thuỷ Vân đạo nhân

平 生 膽 氣 鶚 橫 秋,
Bình sinh đảm khí ngạc (2) hoành thu,
翰 墨 場 中 一 戰 收 。
Hàn mặc trường trung nhất chiến thu.
茅 屋 玉 堂 皆 有 命,
Mao ốc ngọc đường (3) giai hữu mệnh,
濁 涇 清 渭 不 同 流 。
Trọc Kinh (4) thanh Vị (5) bất đồng lưu.
老 逢 昭 代 知 何 補,
Lão phùng chiêu đại tri hà bổ,
身 落 窮 山 笑 拙 謀 。
Thân lạc cùng sơn tiếu chuyết mưu.
檢 點 年 年 貧 活 計,
Kiểm điểm niên niên bần hoạt kế,
茶 甌 詩 卷 伴 湯 休 。
Trà âu, thi quyển bạn Thang Hưu (6)

. 朱 文 安
Chu Văn An


Ghi chú

1. Thuỷ Vân Ðạo nhân: có lẽ là Trần Anh Tông. Anh Tông có sách "Thuỷ Vân tuỳ bút".

2. Chim ngạc: một loài chim bắt cá ở biển, còn gọi là thuỷ ưng hay thư cưu.

3. Nhà ngọc: vua Tống Thái Tông tặng cho viện Hàn lâm thời đó hai chữ "Ngọc đường". ở đây chỉ cảnh hiển đạt của cuộc đời làm quan.

4+5 Sông Kinh, sông Vị: sông Kinh phát nguyên từ Kê Ðầu Sơn thuộc vùng Nguyên Châu; sông Vị phát nguyên từ Ô Thử Sơn thuộc vùng Vị Châu. Hai sông này gặp nhau ở Cao Lăng, mới rõ nước sông Kinh đục, nước sông Vị trong. Hình tượng này dùng trong thơ thường được hiểu theo nghĩa bóng.

6. Chưa rõ là ai. (Theo "Từ nguyên", có thầy tu tên là Thích Huệ Hưu giỏi văn chương, một lần vua Tống Thế Tổ gặp bảo hoàn tục và cho làm tòng sự ở Dương Châu. Phải chăng Thang Hưu tác giả nói là Thích Huệ Hưu?).

Dịch nghĩa

Hoạ vần tặng Thuỷ Vân đạo nhân

Chí khí dũng cảm thuở bình sinh như chim ngạc bay ngang trời thu,
Trong trường bút mực, chỉ một trận là được.
Nhà tranh hay nhà ngọc, đều có số mệnh,
Sông Kinh đục, sông Vị trong, vốn không chảy cùng dòng
Già gặp thời sáng sủa, biết chẳng ích gì,
Thân rơi vào núi thẳm, cười mình mưu vụng.
Hàng năm kiểm điểm lại cái sinh kế nghèo,
Vẫn âu trà, cuốn thơ, làm bạn với Thang Hưu.

Dịch thơ

Bình sinh dũng khí ngạc tung trời
Bút mực trường văn chỉ thắng người
Nhà ngọc lều tranh đều tại số
Vị trong Kinh đục chảy đôi nơi
Thân rơi núi thắm cười mưu vụng
Già gặp thời minh vô ích thôi
Kiểm điểm hàng năm sinh kế bí
Trà âu thơ quyển bạn vui chơi.
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 11

望 泰 陵
Vọng Thái Lăng

松 秋 深 鎖 日 將 夕,
Tùng thu thâm toả nhật tương tịch,
煙 草 如 苔 迷 亂 石 。
Yên thảo như đài mê loạn thạch.
黯 淡 千 山 風 更 愁,
Ảm đảm thiên sơn phong cánh sầu,
消 沉 萬 古 雲 無 跡 。
Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.
溪 花 欲 落 雨 絲 絲,
Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
野 鳥 不 歸 山 寂 寂 。
Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.
幾 度 躊 躇 行 復 行,
Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
平 蕪 無 盡 春 生 碧 。
Bình vu vô tận xuân sinh bích.

朱文安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Trông về Thái Lăng

Cây tùng cây thu khoá kín trời sắp về chiều,
Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá ngả nghiêng.
Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn,
Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết.
Hoa bên suối sắp rụng, mưa lất phất,
Chim ngoài đồng nội im tiếng, núi quạnh hiu.
Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi,
Cỏ rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc.

Dịch thơ

Tùng thu khóa kín trời chiều
Ngả nghiêng đá cỏ như rêu xanh rờn
Ngàn non ảm đạm thêm buồn
Tiêu tan muôn thuở mây còn dấu đâu?
Hoa tàn bên suối mưa mau
Không chim nội cỏ một bầu vắng tanh
Dùng dằng đi lại loanh quanh
Cỏ hoang bát ngát xuân xanh biếc trời.
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 12

春 旦
Xuân đán

寂 寞 山 家 鎮 日 閒,
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
竹 扉 斜 擁 護 輕 寒 。
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
碧 迷 草 色 天 如 醉,
Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
紅 濕 花 梢 露 未 乾 。
Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
身 與 孤 雲 長 戀 岫,
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
心 同 古 井 不 生 瀾 。
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
柏 薰 半 冷 茶 煙 歇,
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
溪 鳥 一 聲 春 夢 殘 。
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.

朱 文 安
Chu Văn An
Dịch nghĩa

Sớm xuân
Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi,
Cánh cửa phênh che nghiêng ngăn cái rét nhẹ.
Màu biếc ác cả sắc mây, trời như say,
Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi,
Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng.
Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt,
Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.

Dịch thơ

Trên non nhà vắng ngày nhàn,
Phên nghiêng ngăn ngọn gió hàn nhẹ bay.
Ngút ngàn cỏ biếc trời say,
Cánh hoa thấm ánh hồng lay trước vườn.
Thân như mây bện sườn non,
Lòng như giếng cổ không còn sóng lan.
Khói thông vãn, khói trà tan,
Tiếng chim bên suối kêu tàn mộng xuân. 
     Đỗ Đình Tuân dịch   

25/6/2012
Đỗ Đình Tuân