Chim Việt Cành
Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
|
|
Dẫn nhập:
Rất ngay tình, năm cùng tháng tận thu vén bài vở trong kho chữ. Tình cờ gặp bản thảo viết đã lâu có hơi hướng đốt lò hương cũ cho một thời đã qua và đang chìm vào quên lãng. Đọc lại, thấy những góp nhặt sỏi đá trong văn bài như những dữ kiện, niên lịch và giai thọai sao khó nhai quá thể: Vì bài viết bỏ quên cả một thời gian dài nên không nhớ tầm chương trích cú ở đâu với những tam sao thất bản. Ấy là chưa kể như duyên nghiệp theo ngòi bút đẩy đưa những giai thoại về...chó gì mà nhiều đến thế. Thế nên chuyện cụ Nguyễn Du (1765-1820) đỗ Tam trường và ăn thịt chó từ đời Hậu Lê không dám mang vào bài tản bút qua bài Đường thi có tên Hành lạc từ: Tội gì ngàn năm
lo
Vì vậy, thêm một lần đắp chữ vá câu qua hai ba tác giả khác nữa. Chẳng phải là...ăn thịt chó,...chó chết, hay...cãi nhau như chó. Nói cho ngay, gà què ăn quẩn cối xay không ngoài chuyện một quan là sáu trăm đồng, chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi. Và làm như chữ nghĩa với ba vòng dây xích bước còn vương lôi kéo trở về một thời lều chõng xa xưa với ao nghiên ruộng chữ để...đập cổ kính ra tìm lấy bóng. Từ thời Đông Hán, người Tàu truyền bá Hán học sang nước ta. Lối dậy bấy giờ, trước là dậy chữ nghĩa cho một số người làm lại thuộc cho các quan Tàu. Sau là dậy dân ta làm lễ cưới vợ, gả chồng theo văn hóa Tàu. Sử không chép rõ, chỉ nói có dậy "Thi thư, lễ nghĩa". Theo tác giả Chu Thiên (Bút nghiên) và Trần Trọng Kim (Nho giáo) thì ở bên Tàu, khoa cử có từ thời Hán Vũ Đế, vua ra bài sách cho những người ứng thì bình giải. Sau đó họ mở trường dạy chữ Hán ở nước ta quy củ hơn, học sinh thi đỗ có bằng "Mậu tài" và "Hiếu liêm". Có mậu tài và hiếu liêm, một số người được làm quan trên đất Tàu như Đổng Trọng Thư, Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm. Đến đời nhà Tùy, khoa cử mới được tổ chức quy mô, nhưng nhà Đường hạn chế số sĩ tử nước ta sang thi khoa tiến sĩ là 8 người, thi khoa Minh kinh không quá 10 người. Theo Đại Việt toàn thư, người Việt ta là Khương Công Phụng, người đỗ tiến sĩ đầu tiên vào thời nhà Đường. Đời Lý (1009-1225) Sau 1200 năm Bắc thuộc, đã có nhiều người biết chữ Nho, khoảng thời gian này đạo Khổng du nhập vào nước ta. Nhưng mãi đến năm 1070, Lý Thánh Tông mới lập Văn miếu thờ Khổng tử. Ngược về năm 1007, Lê Đại Hành cho người sang Tàu thỉnh Cửu kinh, và Đại tạng, chữ Hán mới thực sự phổ cập với đạo Nho ở nước ta. Vì vậy đời nhà Lý, Phật giáo được coi như quốc giáo, các nho sinh đều đã được thụ giáo trước ở các chùa do sư dậy. Lý Thánh Tông mất năm 1072. Tân vương Lý Nhân Tông còn nhỏ, bà Ỷ Lan (?) nhiếp chính. Năm 1075, bắt chước nhà Đường, bà ra lệnh mở kỳ thi Minh kinh bác học (giảng giải kinh sách) còn gọi là khoa Tam trường (thi Đại khoa gồm ba kỳ) để kén chọn nhân tài. Đây là kỳ thi mở đầu nền khoa cử ở nước ta, trong phép thi cử dùng cả tam giáo: Nho, Lão, Phật. Lê Văn Thịnh, người Bắc Ninh, đỗ đầu trong kỳ thi này. Ngay năm sau 1076, trường Quốc tử giám được thiết lập, bổ những ngươi văn học vào dậy Tứ thư, Ngũ kinh (2) đào tạo nho sĩ. Sĩ tử là con của vua quan nên sĩ số chẳng là bao. Tuy nhiên có thể nói Quốc tử giám (3) hay Văn miếu là đại học tiên khởi của nước ta, và chỉ khi nào cần nhân tài mới mở khoa thi. Năm 1152, Lý Anh Tông mở kỳ thi Điện thí, thi ngay trong sân điện của vua, sau này gọi là thi Đình. Đời Trần (1225-1400) Thời này được chia làm hai thời kỳ: Nho giáo và Tống nho. Mặc dù đời Trần sùng bái Phật giáo, Lão giáo nhưng vẫn phát triển Nho giáo như đời Lý. Năm 1232, Trần Thái Tông cho mở kỳ thi Thái học sinh mà sau này gọi là tiến sĩ với giới hạn tiến sĩ chỉ có 3 cấp là Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp, Đệ tam giáp tiến sĩ. Năm 1247, cũng khoa thi Thái học sinh danh hiệu của 3 người đỗ cao nhất (tam khôi) được đổi lại là Trạng nguyên, Bảng nhãn (như Bảng nhãn là Lê Văn Hưu tác giả bộ Đại Việt sử ký toàn thư, sử gia đầu tiên của nước ta), Thám hoa và còn lại là tiến sĩ. Trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa cử ta là Nguyễn Hiền, người Hà Đông. Chu văn An (1292-1370) đỗ Thái học sinh đời Trần Minh Tông, sau được bổ làm Tư nghiệp quốc tử giám để dậy thái tử Vượng tức vua Trần Hiển Tông và các con đại thần. Từ năm 1252, những học trò nghèo nhập học cùng với con quan vào học Quốc tử giám. Phép thi được định rõ ràng, đời Trần Thuận Tông, chỉ có hai khóa thi là thi Hương tổ chức ở các vùng để lấy cử nhân và thi Hội để lấy tiến sĩ. Thi Hương cũng như thi Hội phải thi qua 3 trường. Trường nhất: thi kinh nghĩa. Trường nhì: thi một bài thơ thất ngôn, và một bài phú tám vần. Trường ba: thi văn sách. Lệ khoa cử ngày xưa được thay đổi theo thời, học trò thi Hương đậu hạng thứ là tú tài, đậu ưu và bình là cử nhân. Đời Trần Anh Tông quy định lại, thi Hương phải qua 4 trường. Ai đỗ cả 4 trường được gọi là cử nhân. Đậu cử nhân mới được thi Hội. Thi Hội đậu được mới vào thi Đình để phân chia cấp bậc tiến sĩ. Trần Duệ Tông mở khoa thi tiến sĩ, học vị tiến sĩ bắt đầu có từ năm này. Thi Đình được tổ chức tại hành cung Thiên Trường (phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Thứ bậc như sau: Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Đệ nhị giáp tiến sĩ cập đệ (Hoàng giáp). Đệ tam giáp đồng tiến sĩ (Tiến sĩ). Thi Hương
Sớm tinh mơ các
quan làm lễ tiến trường tại khu trường thi Nam Định khoa
Mậu Ngọ(4).
Hai
chiếc lọng vàng phủ xuống lá cờ và tấm biển cỏ chữ
"phụng chỉ" "khâm sai" và bốn chiếc lọng xanh ghé sát thấp
tịt xuống đầu bạc của các ông đại khoa. Càng tiến gần
lại trường, quan đang tế cáo trời đất vua thần thánh và
xuýt xoa khai xong tên, tuổi, quê, quán. Ngài khấn : "... Báo
oản giả, tiên nhập, báo ân giả, thứ nhập..."
Cái bản giáp bài viết xong lâu rồi mà quái lạ, hễ cứ động đặt ngòi bút lên mặt quyển là ông Đầu Xứ Em lại thấy đau bụng, đau quằn quại tựa chứng hoắc loạn cứ như dùi vào từng miếng tì vị. Giữa hai cơn đau bụng, từ khu nhà thập đạo, vẳng về lều ông những tiếng kêu nài: "Lạy các quan, còn chỉ có một khoa thi này, xin các quan thương cho anh em đổi quyển. Trời mưa ướt lắm, anh em có muốn như thế làm gì..." Thấy ở một vài lều chung quanh có khói lửa và tàn vàng bay ra, ông Đầu Xứ Em sực nhớ đến đinh vàng cất trong tráp, bèn lấy ra gỡ từng tờ một, xếp ngay ở đầu mép chõng, tay châm mồi lửa bùi nhùi. Gió thổi vào đống lửa vàng hóa bùng bùng, lửa kêu vù vù, vụt bùng lên và tiếng cười lanh lảnh trở nên the thé, rồi nấc lên mãi. Ông Đầu Xứ Em cảm thấy bãi trường là thừa lạnh lẽo. Trường thi âm u và không quạnh. Gió thổi bay quyển thi xuống làn cỏ dầm nước. Ông Đầu Xứ Em gắng nhoài người ra, muốn vớ lấy quyển bị gió thổi bốc khỏi mặt tráp. Nhưng ông hụt tay, chỉ đủ giữ mình khỏi ngã... Năm 1261, Trần
Thánh Tông lập phân khoa y khoa gọi là Thái y. Sau đó tiếp
tục 17 khoa thi nữa theo định kỳ. Vì vậy, Nho giáo đời
Trần được xem là toàn thịnh. Tùy theo từng triều đại,
đỗ đầu cả 3 kỳ thi Hương, Hội, Đình gọi là Tam nguyên.
Theo Lược khảo về khoa cử Việt Nam của Trần văn
Giáp, Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội 1941: Sau 845 năm, khởi thủy
từ năm Ất Mão 1075 đến năm Kỷ Mùi 1919 có 185 khoa thi với
2998 vị đại khoa thì chỉ có 5 vị đỗ Tam nguyên đó là
Đào sĩ Tích đời Trần Duệ Tông. Lê Qúy Đôn thời Lê Trung
Hưng. Trần Bích San triều Tự Đức. Nguyễn Khuyến cũng triều
Tự Đức. Vũ Phạm Hàm triều Thành Thái.
Đời Trần có Mạc Đĩnh Chi (1280-1350), người Hải Dương, đỗ Trạng nguyên năm 1304 đời Trần Anh Tông, vua thấy xấu xí có ý chê, ông làm bài phú Ngọc tĩnh liên khiến vua khâm phục và cử đi sứ hai lần. Lần đầu tới ải Nam Quan trễ, ải quan ra câu đối để thử tài: "Quá quan trì, quan quan bế, thỉnh quá khách quá quan". Mạc Đĩnh Chi đối lại: "Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối". Đến kinh đô, vua Tàu thử tài qua bài văn tế công chúa Tàu vừa...chết, Mạc Đĩnh Chi khóc công chúa Tàu:"Y (ôi)! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết...". Vua Tàu khen ngợi phong Lưỡng quốc trạng nguyên. Sau Trạng được cử đi sứ lần thứ hai, bị giữ lại...dịch kinh thư. Sau thêm Lưỡng quốc trạng nguyên Tống Trân, cũng bị giữ 10 năm dịch thư kinh. Nhưng cuối đời Trần thì Tống nho truyền sang nước ta. Tống nho là gì? Nguyên bền Tàu, Tần Thủy Hoàng dựa vào học thuyết của phái Pháp gia để cai trị, ra lệnh tiêu hủy hết sách vở của Nho giáo. Khi Hán Cao Tổ lên, cho thu thập lại các bộ Tứ thư, Ngũ kinh. Và phục hưng Nho giáo một cách độc tôn. Ứng thi phải theo sách nho giáo đời Tống soạn ra, như Tam tự kinh là quyển sách do Vương Ứng Lâm đời nhà Tống viết để dậy trẻ con học vỡ lòng chữ Hán. Mỗi câu có ba chữ. Tứ thư Ngũ kinh thu hẹp lại một thứ "tôn quân" để dễ bề cai trị. Sau khi nhà Trần bị suy, nhà Minh đem Tống nho cưỡng nhập vào nước ta. Với chữ nho
Ta và Tàu, không thể không nhắc đếngiai thọai Vương
Bột qua bài Đằng vương các tự:. Chuyện là con của
Cao Tông đời Sơ Đường, được cha phong là Đằng vương,
nên xây một cái gác bên bến Tầm Dương để bằng hữu ngâm
thơ tác phú. Vương Bột lúc ấy mới 15 hay 16 tuổi đến và
thành danh với hai câu:"Lạc hà dữ
cô
lộ tề phi - Thu thủy
cộng
trường thiên nhất sắc".
Vậy
mà có người chê là Vương Bột còn dốt nhưng không chỉ
dốt ở đâu? Năm 29 tuổi, họ Vương đi thăm cha là Thái Sử
ở Giao Chỉ và bị đắm thuyền chết ở xã Thổ Thành, Nghệ
An.
Đời Hồ (1400-1407) Chữ Nôm được Hồ Quý Ly là người đầu tiên đem ra dùng để dịch kinh sách Minh đạo từ thế kỷ thứ 14. Sách bàn về các nhân vật và kinh điển đạo Nho, chê các danh nho đời Đường, đời Tống chỉ biết chắp nhặt văn chương, học rộng mà viển vông. Sách dâng lên Trần Nghệ Tông và được khen nhưng bị học quan ở Quốc tử giám chống đối. Năm 1935, ông dịch Vô dật trong Kinh thi dậy vua. Năm 1396 dịch sách Thi nghĩa bằng chữ Nôm (giảng nghĩa Kinh thi). Mãi đến đời Mạc Hậu Hợp 1565 chữ Nôm mới dùng lần đầu trong một khoa thi tiến sĩ. Hồ Quý Ly thay đổi một chút là ai đỗ kỳ thi Hương, năm sau vào bộ Lễ thi lại, nếu đỗ mới được bổ đi làm quan. Sau đó mới được dự kỳ thi Hội. Hồ Hán Thương thêm phân khoa toán pháp với phép cửu chương tính. Minh sử chép rằng niên hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ra lệnh lùng bắt những cử nhân Giao Chỉ giữ chức tri huyện hay tri phủ mang về. Ngoai ra cònbắt ta cống nộp sư sải và hoạn quan. Năm 1405, nhà Minh mưu đồ xâm lăng, sai bọn hoạn quan người Việt được mang về Tàu làm quan từ trước như Nguyễn Toán, Từ Cá, Ngô Tín đi sứ, dò xét địa hình nước ta. Bọn này dặn họ hàng hễ quân Minh tràn sang thì dựng cờ biên rõ là thân thuộc của nội quan nào thì sẽ thoát nạn. Hồ Hán Thương biết chuyện sai giết hết thân thuộc bọn này.Tuy nhiên, những người bị tiến cống cho Tàu không phải toàn bọn bán nước lập công mà còn có những người có biệt tài như Trần Vũ và Nguyễn An. Giữa năm 1407,
toàn bộ gia tộc họ Hồ, từ Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương,
Hồ Nguyên Trừng đến con cháu đều bị bắt sống và giải
về đế đô Kim Lăng (Nam kinh).
Đại Việt sử ký toàn thư
ghi nhận năm 1407 ngài Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã
chế tạo súng thần công để chống lại quân Minh xâm lược.
Theo tài liệu
của Tôn Lai Thần (Sun Laichen):Theo lệnh vua Minh, Hồ Nguyên
Trừng chế tạo vũ khí như hỏa súng, đoạn tiễn, thần tiễn,
thuốc súng cho Binh trượng cục (Cục chế tạo vũ khí) và
được thăng chức Thượng thư bộ Công (tương đương bộ
trưởng ngày nay).
Nguyễn An bị nhà Minh bắt về Tàu cùng với Hồ Nguyên Trừng. Theo Hoàng Minh thông ký thì Nguyễn An trải 5 đời vua Minh (Thái Tông, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông và Cảnh Tông). Ông là người trông coi việc tu tạo thành Bắc Kinh 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, v...v... Sách Thủy đông ký của Diệp Thịnh đời Minh ghi rằng: "Nguyễn An còn gọi là Á Lưu, người Giao Chỉ, thanh khiết, giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc..". Ông có tên trong sách Minh sử luận tùng ở thư viện Bắc Kinh ngày nay. Đời Hồ và Lê có Nguyễn Trãi (1389-1442) đỗ Thái học sinh. Sau khi giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, ông viết Bình Ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta và cũng là tác giả nhiều thơ văn Hán Nôm hiện còn lưu truyền. (Nam quốc sơn hà, Nam đế cư của Lý Thường Kiệt thuộc đời Trần là bản tuyên ngôn thứ nhất). Đời Lê (1428-1527) Khi Lê Lợi thu hồi độc lập xong cho tái lập lại thi cử theo Tống nho để bảo vệ ngôi vua. Nho giáo đánh bật Phật và Lão giáo ra khỏi trường thi. Thi cử hạn hẹp trong vài quyển sách, xa rời thực tế, theo lề lối Tống nho. Và kéo dài trong 300 năm trị vì của nhà Lê qua đến đời Nguyễn thêm 150 năm nữa kể từ đời Gia Long. Lê Thánh Tông lập ra hội "Tao đàn nhị thập bát tú", vua làm nguyên soái với 28 vị tiến sĩ cùng nhau làm thơ Hán và Nôm để ngâm vịnh. Đồng thời vua cũng làm chủ khảo các kỳ thi Đình, đặt ra lệ xướng danh, vinh quy bái tổ. Sau khi đăng khoa xướng danh được cờ quạt võng lọng do vua ban cho để vinh quy. Tiếp đến là bảng vàng bia đá, Năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia khắc tên các tiến sĩ ở trường Quốc tử giám. Tổng cộng có 82 bia đá có 1323 tên tiến sĩ đặt ở hai bên tả vu, hữu vu. Đời Lê mở mang việc học, lập thêm những trường Quốc tử giám ở các châu, phủ, huyện (trong dân gian gọi là Văn miếu như ở Hưng Yên). Năm 1429, cho phép các quan từ hàng Tứ phẩm trở xuống, các ẩn sĩ thông kinh sử, các võ tướng thi Hội. Quan văn thi kinh sử, quan võ thi võ kinh. Đời Lê, thi Hương 4 năm như đời Trần Anh Tông, ai đỗ cả 4 trường được gọi là hương cống, đỗ 3 trường gọi là sinh đồ. Thi Đình thời Lê Trunh Hưng
Sáng sớm hôm ấy, Thượng-thiết-ty
đặt ngai vua ở giữa điện Kính-thiên, đặt hương án và
bàn ở trước ngự tọa của chúa ở bên tả ngự tọa của
vua. Thừa-dụ-cục đặt bàn ở hai bên tả hữu sân rồng,
để quyển thi, bút và nghiên mực ở trên bàn. Các quan Đề-điệu,
Tri-cống-cử, Giám-thí chia nhau đứng ở hai bên các bàn để
quyển thi. Nhân viên hai vệ Cẩm-y, Kim-ngô bầy lều thi và
quyển thi ở hai bên sân rồng. Một viên Lễ quan (dùng quan
Lễ bộ), một viên Tuyên-chế-sách (dùng quan Đông-các) đứng
ở bên tả sân rồng (hướng về bên hữu), một viên Nghi-chế-ty
đứng ở bên hữu sân rồng (hướng về bên tả), hai viên
Tuần-xước (lâm thời được sai) đứng ở hai bên tả hữu
sân rồng (hướng về phía bắc). Quân lính các ty vệ cắm
cờ xí theo nghi thức.
Ao nghiên ruộng
bút với...thịt chó không ai ngoài Trạng nguyên Nguyễn Đăng
Hạo người Hậu Duệ, Bắc Ninh. Ông đỗ Đệ nhất giáp tiến
sĩ khoa Bính Tuất 1646, đời Lê Chân Tông. Năm Kỷ Mùi, vua
nhà Thanh thấy sao văn khúc giáng ở phía Nam, cho sứ thần
sang nước ta tìm nhân tài và gặp ông. Vua Tàu cho vế đối:
Lão
khuyển lạc mao do hướng đình tiền phệ nguyệt (chó già
rụng lông, còn đứng trước sân, thấy trăng lên là sủa).
Ông thấy họ chê mình hiểu biết kém cỏi, bèn đối lại:
Tiểu
oa đoản cảnh mạn cư tỉnh để quan thiên (ếch con ngắn
cổ, dám ngồi đáy giếng, mà xem xét cả trời). Vua Tàu khâm
phục phong là Lưỡng quốc trạng nguyên và phán: "Địa linh
nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ
nay về sau chỉ có một Đăng Hạo".
Nếu như Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi và Lưỡng quốc trạng nguyên Tống Trân, cùng bị giữ ở Tàu dịch thư kinh mươi năm. Nguyễn Đăng Trừng, Nguyễn An bị lưu xứ ở Tàu đến suốt đời. Với giai thoại thì chẳng thể thiếu vắng Thám hoa Giang Văn Minh, người xã Đường Lâm, tỉnh Sơn Tây được cử đi sứ. Minh Tự Tông ra câu đối: "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục" có ý nhắc đến Mã Viện dẹp cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng. Thám hoa Giang văn Minh không chần chừ, khẳng khái đối: "Đằng giang tự cổ huyết do hồng". Vua Minh biết ý ông dẫn việc Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên ở sông Bạch Đằng để đối lại. Bất chấp luật lệ bang giao, Minh Tự Tông thét bọn đao phủ trói ông lại, gắn trám đường vào miệng và mắt rồi cho người mổ bụng xem "sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu". Hôm đó nhằm ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Tính ra, ông mới 58 tuổi. Hòng uy hiếp dân Đại Việt, Minh Tự Tông còn cho ướp xác ông bằng bột thuỷ ngân và cho sứ bộ ta đem thi hài ông về nước. Những vụ án
nổi tiếng ở trường thi:
Nổi tiếng nhất là vụ án Tam nguyên Lê Quý Đôn: Khoa thi Hội 1775, Lê Quý Đôn làm chánh chủ khảp nói với học trò giỏi của mình là Đinh Thì Trung đổi quyển cho con mình Lê Quý Kiệt. Kết quả Lê Quý Kiệt đỗ thủ khoa. Khoa ấy vua Lê chúa Trịnh đánh cuộc, vua Lê cho là thủ khoa sẽ về tay Kiệt vì là con Lê Quý Đôn tất học giỏi. Chúa Trịnh vì đã biết Đinh Thì Trung nên đánh cuộc Trung sẽ đỗ đầu và định bụng hễ đỗ đầu là trọng dụng ngay. Chúa Trịnh thua cuộc, không chịu, duyệt lại văn bài, khám phá ra vụ đổi quyển. Đinh Thì Trung tố cáo Lê Quý Đôn. Vì Lê Quý Đôn làm quan to, Trịnh Sâm bỏ qua không phạt và Đinh Thì Trung bị đi đày ở An Quảng. Thêm một vụ khác nổi danh không kém với "Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán": Năm 1841, Cao Bá Quát(6)làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, sửa bài hộ cho 24 quyển phạm trường quy. Nguyễn Văn Siêu(7)làm phân khảo lấy đỗ cho cháu của bạn mặc dù đã bị đánh hỏng. Mọi việc bị giám sát Hồ Trọng Tuấn đàn hạch: Cao Bá Quát bị tội tử hình. Thiệu Trị cho là Quát không gian lận mà chỉ muốn cứu vớt thí sinh có tài lỡ phạm trường quy, giảm án "giảo giam hậu" (đợi xử giảo, chết toàn thây, không bị chặt đầu). Sau lại đổi qua "xuất dương hiệu lực" cho theo phái đoàn đi Tân Gia Ba. Riêng Nguyễn Văn Siêu bị phạt đánh trượng và đi đày một thời gian. Giai thoại làng
nho toàn tập ghi chép những chuyện như sau:
Về người Việt
và thi cử dưới mắt người ngoại quốc thế kỷ 17:
Đời Mạc (1527-1592) và Lê Trịnh (1600-1788) Việc thi cử trong đời Mạc không có gì thay đổi nhiều. Chữ Nôm được Hồ Quý Ly là người đầu tiên đem ra dùng để dịch kinh sách từ thế kỷ thứ 14, mãi đến đời Mạc Hậu Hợp 1565 mới dùng chữ Nôm lần đầu trong một khoa thi tiến sĩ với đề mục kỳ đệ tứ phải là một bài phú Nôm. Lề lối khoa trường đời Hậu Lê vẫn là Tam trường, thi Hương do địa phương tổ chức, đỗ cả 3 hay 4 kỳ gọi là Cử nhân hay Hương cống, Sinh đồ. Nếu đỗ 1 kỳ được gọi là Tú tài. Sau này gọi là tú đơn, tú kép (đỗ 2 khoa tú tài), tú mền (đỗ 3 khoa tú tài), tú đùn hay tú đụp (đỗ 4 khoa tú tài). Đỗ tú tài được làm Huấn đạo, Giáo thụ ở phủ, huyện. Đỗ thi tương gọi là Hương cống được bổ làm Tri phủ, Tri huyện. Cống sĩ đã đỗ thi Hội vào cung vua thi Đình. Nếu đỗ là tiến sĩ mà trong dân gian gọi là ông Nghè. Tên này bắt nguồn sau khi đỗ, các tiến sĩ đứng dưới hành lang ngoài sân đình dẫn đến Đại Cung Môn đợi vào chầu vua ban thưởng. Mà mái hiên của hành lang tiếng địa phương người miền Trung gọi là "nghè". Đời Mạc và Hậu Lê vì thiếu tiền nên đặt lệ đi thi phải đóng tiền chi phí chấm thi. Vì vậy trường thi là chỗ mua bán, quan trường thông đồng. Nhà Mạc có tranh Đông Hồ... Mặc dù nhà Mạc chỉ kéo dài 65 năm nhưng theo Đại Nam nhất thống chí chép một vị nữ trạng nguyên có một không hai của nước ta tên Nguyễn Thị Duệ, người Hải Dương. Bà theo cha lên Cao Bằng, đất của họ Mạc. Bà là người tuyệt sắc, lại rất thông minh, 10 tuổi đã biết làm văn bài. Ông thân bà tiếc tài con gái, cho cải nam trang đi học. Năm 17 tuổi, Mạc Kính Cung mở khoa thi Bính Thìn 1616, trong khi thầy dậy học bà đỗ thứ hai, bà lại đỗ thủ khoa. Tự xét về văn tài mình, bà viết: "Nữ nhi dù đặng cỏ thi - Ắt là tay thiếp kém gì trạng nguyên". Bà mất, dân làng làm tượng thờ bà, có bức hoành đề: "Giáp khoa tiên chiếm Cao Bằng bảng Đại bút do truyền Bát cổ bi". Đời Nguyễn Tây Sơn (1788-1802) Quang Trung muốn gây dựng một nền quốc học nên chú trọng vào chữ Nôm. Trong các khoa thi, đề ra bằng chữ Nôm và thí sinh phải làm bằng bài chữ Nôm. Chữ Nôm được Hồ Quý Ly là người đầu tiên đem ra dùng để dịch kinh sách từ thế kỷ thứ 14, mãi đến đời Mạc Hậu Hợp 1565 mới dùng lần đầu trong một khoa thi tiến sĩ. Và phải đến đời Quang Trung mới dùng chữ Nôm trong khoa thi Hương ở Nghệ An mà Nguyễn Thiếp tức La Sơn phu tử là chánh chủ khảo. Việc dùng chữ Nôm đang dang dở nửa chừng vì ngài mất quá sớm nhưng nhờ vậy mà sau này chữ Nôm có tư thế và khởi sáng trong văn học nước ta. Theo sách
Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép:
Cũng với giai
thoại đi sứ, trong Đề Từ của sách Bắc sứ thông
lục, Lê Quý Đôn kể chuyện chính ông đi sứ năm 1760:
Chính vấn đề các viên chức Thanh ở quan ải vẫn luôn luôn dùng tiếng Di (mọi) để trỏ người mình, kể cả sứ thần, là một điều mỗi lúc sứ ta sang, đều phải tranh biện phản đối và đòi cải cách. Sứ bộ gửi tờ trình cho viên Tuần phủ Quảng Tây xin thôi dùng chữ Di. Đại ý tờ trình như sau: "Trong các công văn và khi tiếp đón sứ thần mọi nơi đều gọi hai tiếng An Nam. Thế mà ngày chúng tôi đến cửa quan ải, quan đạo chỉ hô: Di quan, Di mục, làm chúng tôi hổ thẹn rất sâu". Ấy vậy mà tờ khái này viết ngày 13 tháng Chạp năm Tân Mão 1761. Sứ bộ tưởng trước Tết sẽ về đến nhà, nhưng phải đợi gần một tháng, quan Thanh mới chịu mở cửa quan ải. Đến khi tới Nam Ninh, Yết quan Đạo Đài, giữa đám đông người mà vẫn dùng chữ "Di". Sứ thần xin theo lệ đời Ủng Chính thứ 9 (173l) giới thiệu các sứ thần bằng chức danh. Viên Bố Chánh biện luận một cách khôn khéo rồi cũng nhận lời. Tôi làm tờ trình của sứ bộ gửi về chúa Trịnh Doanh. Tờ trình nầy rất quí, vì được làm bằng tiếng Nôm, có lẽ để người Thanh không đọc được, nếu chúng tò mò". Đời Nguyễn (1802-1945) Gia Long bỏ chữ Nôm trong thi cử và trở về với Tống nho như đời nhà Lê. Vua cho mở trường Quốc tử giám ở Huế và các vị khoa mục thời Hậu Lê được gọi vào giảng dậy. Năm 1807 cho mở khoa thi Hương đầu tiên và phép thi cũng giống như thời Hậu Lê. Theo Dương Quảng Hàm, qua Việt Nam văn học sử yếu: Đời Hậu Lê thi Hương lấy tú tài và cử nhân. Đời Gia Long vẫn giữ như vậy và chỉ đổi tên: thi Hương trúng cả 3 trường được gọi là Sinh đồ (ông Đồ), đỗ cả 4 trường gọi là Hương cống (ông Cống). Đời Minh Mạng đổi lại là tú tài, cử nhân như đời Hậu Lê. Mãi năm 1822, Minh Mạng mới mở khoa thi Hội, thi Đình. Thi Hương 3 năm một lần thì thi Hội cũng thế, vì thi Hội bao giờ cũng diễn ra ngay năm sau có thi Hương. Đỗ thi Hội mới được thi Đình sau đó một tháng cùng năm. Thi Hội ở trường thi có lều và nằm trên chiếu thi, người đỗ thi Hội có bảng yết (gọi là Trúng cách). Thi Đình ở trong cung điện và ngồi trên bàn thi, người đỗ thi Đình có lễ xướng danh (lễ Truyền lô). Thi Đình, Minh Mạng bỏ Trạng nguyên, lấy 2 người đỗ đầu là Bảng nhãn và Thám hoa. Minh Mạng gần
gũi với văn hóa Tây phương hơn qua chuyện Michel Đức là
con đầu lòng của Jean Baptiste Chaigneau, tức Chúa Tầu Long,
một trong hai người ở lại làm quan lâu dài với Gia Long sau
khi giúp vua thắng nhà Tây Sơn. Chaigneau
đã "vâng mệnh" Gia Long cưới vợ Việt. Là con quan nhất phẩm,
thường được ra vào nơi cung cấm nên người sau có nhiều
chi tiết do Michel Đức viếttrong cuốn Souvenirs de Huế,
như:
Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872), người Cần Thơ, Minh Mạng thứ 16, đỗ thủ khoa thi Hương năm 28 tuổi tại trường thi Gia Định nên được gọi là Thủ khoa Nghĩa. Ông hay uống rượu và làm thơ Hán Nôm, trong lúc nhàn đàm với các quan, cầm tập thơ Đường thi tam bách thủ đọc bài Nhân gian tứ hỷ để bình văn luận nghĩa: Cửu hàn phùng
cam vũ
Nghĩa thơ thì
một trong tứ khoái của con người là hạn lâu gặp mưa
rào, xa quê gặp bạn cũ, đêm động phòng hoa chúc, bảng vàng
đề tên. Mọi người gật gù tấm tắc khen, nhưng Thủ
Khoa Nghĩa lắc đầu vì chỉ thường thôi. Nếu thêm mỗi câu
đầu hai chữ:
Bùi Hữu Nghĩa dẫn giải: mười năm nắng hạn mới gặp mưa rào, ngàn dặm xa quê lạigặp bạn cũ, nhà sư có được đêm động phòng hoa chúc, và học trò dốt đi thi thấy bảng vàng đề tên" thì chẳng...khoái hơn lắm ru. Khoa cử đời
Nguyễn kỳ thị Bắc Nam, năm 1825, sĩ tử Thừa Thiên, Quảng
Nam không một ai đỗ. Minh Mạng sai Lục bộ lấy thêm Cao Xuân
Dục ở Thừa Thiên lúc này chỉ là Hương cống. Ông này sau
là chánh chủ khảo trường thi Nam Định, Tú Xương là sĩ
tử khoa thi Hương năm ấy và làm bài thơ vịnh ông có câu:
Năm 1826 thi Hội, sĩ tử trên 200 người, quan trường lấy đỗ 9, Minh Mạng bảo 9 người đỗ đều là người Bắc là sao thế? Nên cho người Thừa Thiên để cổ lễ sĩ phong mới phải? Thế là quan trường lấy thêm Phan Thanh Giản. Kể từ khoa 1829 Minh Mạng định lệ sĩ tử ứng thí phải khai tên họ, lý lịch ông cha ba đời trên mặt quyển. Những ai có ông cha ba đời làm nghề xướng ca, hay can trộm cắp hoặc làm giặc đều không được đi thi (làm quan với nhà Tây Sơn hay với nhà Lê cũng bị coi là làm giặc mặc dù nhà Nguyễn áp dụng thi cử của nhà Lê). Năm 1831, tại trường thi Thừa Thiên, Lê Đức Quang, Phạm Huy có cha làm quan đời Nguyễn mà ghi lầm là làm quan với nhà Lê đều bị xóa tên trên bảng cử nhân. Làng Tức Mặc (sau là Xuân Trường) thuộc Nam Định, quê hương của các vua nhà Trần, bị cấm học văn để giữ tinh thần...thượng võ. Năm 1828, khi văn bài sĩ tử miền Bắc sút kém, Minh Mạng bảo chánh chủ khảo Bắc thành: "Bắc Hà vốn là nơi văn vật, hóa ra chỉ là hư danh!". Năm 1834, gần đến khoa thi hai trường Nam Định và Hà Nội, vua lại ra dụ: "Mỗi trường không được lấy quá 50 tú tài". Trong khi 4 trường Thừa Thiên, Nghệ An, Bình Định, Thanh Hóa sĩ số chuẩn định là 100. Ngoài ra còn biệt lệ khác cho phép một số tú tài được thi Hội: Tôn sinh (người trong hoàng tộc), ấm sinh (con quan). Huấn đạo, Gíao thụ (những người có tú tài được bổ vào chức vụ này ở phủ, huyện). Nhà Nguyễn có tất cả 8 trường thi, sau rút lại còn 5 là: Gia Định, Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Nam (Năm 1886 thời Đồng Khánh hai trương thi Hà Nội (8) và Nam Định (9)nhập làm một. Vì trường thi Hà Nội bị Pháp đóng cửa năm 1882, khoa thi cuối cùng là khoa Kỷ Mão (1879). Khoa thi hương cuối cùng của trường thi Nam Định năm Ất Mão1915. Thời Đồng Khánh, thi hương cứ 1 cử nhân lấy 3 tú tài. Thời Thành Thái, thi Hương bỏ "kinh nghĩa" (giảng giải kinh sách), thơ phú, chỉ giữ văn sách (bàn phép trị nước) và luận. Thêm Quốc ngữ, địa lý, cách tri, toán pháp. Thời Duy Tân, thi Hương thêm phần Pháp văn. Nguyễn Khuyến (1835-1910) người làng Yên Đổ, Hà Nam. Năm 1864, đỗ Giải nguyên trường Hà Nội, năm 1871 đổ Hội nguyên và Đình nguyên, tức là Tam nguyên. Vì vậy mọi người gọi là Tam nguyên Yên Đổ. Ông có câu đối viếng Tú Xương: Kìa ai chín suối
xương không nát
Tú Xương (1870-1907)
lận đận với thi cử, ông làm bài thơ Phận hẩm duyên
ôi:
Năm 1903, Tú Xương
đổi chữ lót "Tế Xương" ra "Cao Xương" nhưng vẫn hỏng.
Tam nguyên Trần
Bích San (1838-1877) cũng người Nam Định. Năm 1864 ông
đỗ Giải nguyên trường Nam Định lúc 26 tuổi. Năm sau, 1865
vào kinh thi đỗ luôn Hội nguyên và Đình nguyên. Đỗ
đầu ba kỳ thi liên tiếp nên có học vị Tam nguyên, vua Tự
Đức ban tên hiệu cho ông là Hy Tăng để so sánh với Vương
Tăng đời nhà Tống bên Tàu. Ông đảm nhiệm Lễ bộ sự
vụ, sau được bổ làm Tuần phủ Hà Nội.
Đời Tự Đức 1852, vẫn giữ 4 trường cho thi Hội, nhưng thi Hương rút lại còn 3 trường. Tự Đức tuyển những người khỏe mạnh ở phủ, huyện vào triều làm võ sinh và mở khoa thi Võ tiến sĩ. Vua là một thi nhân còn là một nhà học giả uyên thâm hơn cả các quan văn đã từng khoa trường xuất thân, trước mặt các quần thần, một lần vua nói: "Trẫm bất ứng thí, nhược ứng thí, tất trúng trạng nguyên". Bởi thế, vua cùng hai Bảng nhãn, hai Thám hoa, mỗi người làm một bài luận phú rồi rọc phách nhờ vua Tàu lập một ban giám khảo chấm giùm. Khi ống quyển trả lại, bài của Tự Đức có chữ son phê: "Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách không phải là một người thường, nhưng lại là môt người...không có tài chi mấy". Và Tự Đức đứng...đội bảng. Ao nghiên ruộng chữ với mỗi sách mỗi giai thoại khác nhau như thời Tự Đức có Ông Ích Khiêm người Quảng Nam. Vốn dòng dõi người Cao nguyên, trước họ Ong, đến đời Tự Đức thi đỗ cử nhân, vua cho đổi thành họ Ông. Tự Đức mất, triều chính rối loạn, vua kế vị còn nhỏ, Tường Thuyết chuyên quyền, văn thần võ tướng chỉ là một lũ cầu an không ai lo đến việc nước. Ông bực dọc bèn đặt ra một tiệc mời khắp mặt đại thần tới dự. Các món ăn đều là...thịt chó. Lúc vào tiệc, nhiều người không ăn được thịt chó, ngập ngừng hỏi món ăn khác, ông trả lời: "Bẩm, bữa cơm hôm nay toàn chó cả thôi". Cơm xong, các quan gọi nước, mãi không thấy người nhà đưa lên vì ông đã dặn trước đừng đưa nên ai nấy đều khô cổ vì rượu. Một lúc sau, người nhà mang nước lên ông mắng: "Lũ chúng bay chỉ biết đứa lớn đứa nhỏ ngồi ăn hại, còn thì không biết việc nước...chó gì cả". Các quan đều tím mặt. Với tam sao thất
bản, giai thoại khác do Ông Ích Khiêm kể:
Tiền thần bất
tri
Đản kiến:
Nghĩa là: "Trước
ra sao, sau thế nào, thần không được biết. Thần đến lúc
nửa chừng thấy bàn trên hô: "Chó!", bàn dưới cũng hô: "Chó!"
Trên dưới đều là...chó. Rồi hai bên đánh nhau. Thần can
không được. Thần thấy nguy, thần sợ thần chạy".
Thi Đình thời Nguyễn
Bây giờ đến giờ làm văn, cống sĩ ai về chỗ nấy. Các quan văn võ đều phải ra hết ngoài viện Đãi lậu. Trong điện, tả vu cũng như hữu vu, mỗi bên có một tên lính đóng cửa đứng canh sân điện có viên tuần la và viên tuần sát đi lại tuần phòng, ở ngoài hai cửa túc môn thì có hai trăm biền binh của quan thị nội thống chế phái đến canh giữ. Vân Hạc mới giở tập đầu bài
đã thấy hoảng hồn. Làm sao mà nó dài thế ? Mười tờ giấy
đặc, lỳ lịt những chữ là chữ. Coi qua một lượt thì
thấy nửa trên hỏi về ý nghĩa các kinh truyện, tử sử của
Tầu, nửa dưới hỏi về công việc hiện thời của nước
nhà, tất cả đến gần trăm câu hỏi. Chàng liền gấp lại
và chỉ để hở mấy dòng ở đầu cho lúc trông đến khỏi
nóng ruột. Viết xong ba chữ "đối thần văn" và mấy câu
chúc tụng nhà vua mà người ta gọi là đoạn "tụng thánh"
chàng mới nhìn vào dòng chữ để hở ở đầu bài, rồi theo
thứ tự từ trên xuống dưới lần lượt giả nhời từng
câu hỏi một.
Trời nhá nhem tối, chàng viết vừa
xong, các cống sĩ cũng đều xong cả, ai nấy đem quyển ra
nộp cho quan tuần la. Bấy giờ biền binh ngoài cửa túc môn
lại ngỏ cánh cửa cho các cống sĩ đi ra. Rồi quan giám thí
đại thần và tất cả các viên quan khác đều phải trở
lại trong điện. Ông thu quyển nhận quyển của ông tuần
la giao lại, ông ấn quyển đóng dấu "Luân tài thịnh điển"
vào các cuối quyển, ông di phong xếp quyển vào rương và
dán niêm phong, rồi giao cho ông thu trưởng canh giữ. Các ông
ấy đều phải ngủ ở triều phòng để ngày mai chầu chực
nhà vua chấm văn.
Thêm một giai
thoại vào đời Tự Đức:
Vị tam nguyên thứ năm là Vũ Phạm Hàm, người Hà Đông, đỗ Giải nguyên, Hội nguyên và Đình nguyên đời Thành Thái. Lý do là ông nổi tiếng có trí nhớ dai, nhưng không thấy ông để lại một tác phẩm nào cả về chữ Hán lẫn chữ Nôm ngoài...một số câu đối. Sau Thành Thái, Duy Tân là Khải Định, vua nổi tiếng là giỏi chữ Hán và chữ Nôm, dưới đày là một câu đối trên rặt Nôm, dưới ròng Hán của vua: "Xuân xanh tuổi ngoài đôi chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi năm canh ngồi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tầu con đĩ xác, khi nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoanh ra dáng rạng ra rồng, ngông ra phết, cóc biết chi tồi, miệng én đưa qua mùi gió thoảng". "Quốc gia lịch tứ thiên dư, do truyền nhân vật, như Tô như Duật, như Phật Tử Quân, như Trần Quốc Tuấn, như Phạm Công thượng tướng quân, như Bạch Vân phu tử, như ngự sử Lê Cảnh Tuân, như công thần Nguyễn Công Trứ, tài chi tuấn thời chi tuế, thế chi ư, khí nhưng nhiên phủ, thần long đắc vũ tiện vân đằng". Thời Khải Định, Huỳnh Thúc Kháng phê bình lối học Tống nho: "Mình nhận với học khoa cử cùng lối học Tống nho là lối học tầm chương Khổng Mạnh. Chính là chỗ hỏng, chỗ dở của người Tàu mà minh bắt chước". Phan Chu Trinh xuất thân nho học, đỗ tiến sĩ, trong Văn tế sống các sĩ tử viết thêm: "Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc". Phan Bội Châu trong Việt Nam quốc sử khảo cho biết thêm "Triều Tiên bỏ thi cử theo Trung Hoa từ năm Giáp Ngọ 1894. Trung Hoa cũng bỏ khoa cử từ năm Canh Tý 1900. Đó là một việc nhơ nhớp duy chỉ nước ta còn có mà thôi". Và tiếp: "Người ta mửa ra thì mình nuốt vào, mở miệng ra chỉ biết chi, hồ, dã, giả mà thôi". Báo trước cho sự cáo chung của nền khoa cử Nho học là nghị định ngày 21/12/1917 của Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut về việc cho ban hành Quy chế chung về ngành giáo dục ở Đông dương. Và phải đợi đến chấm dứt Chiến tranh đệ nhất thế chiến, nhà Nguyễn mới..."chấm dứt" kỳ thi Hương cuối cùng tại trường thi Nam Định vào năm 1915 và Nghệ An, Bình Định năm 1918. Và phải chờ đến khi Albert Sarraut ra lệnh đình chỉ khoa cử Tống Nho bằng vào khoa thi Hội. Ngày 01/3 năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ 4, ngày 01/4/1919 triều đình Huế mở khoa thi Hội cuối cùng được tổ chức dưới triều nhà Nguyễn và cũng là khoa thi cuối cùng của nền khoa cử nước ta. Như vậy, kể từ khoa thi đầu tiên được tổ chức vào năm Ất Mão (1075) dưới đời Lý Nhân Tông đến khoa thi năm Kỷ Mùi (1919) dưới đời Nguyễn Bửu Đảo Khải Định, lịch sử nền khoa cử sau ngót 900 năm tồn tại đã có tất cả 188 khoa thi (đại khoa), lấy đỗ được 2898 vị, trong đó có 46 Trạng nguyên, 48 Bảng nhãn, 76 Thám hoa, 2462 Tiến sĩ và 266 Phó bảng. Khải Định hạ chiếu chính thống hóa văn tự An Nam và ban cho tên mới là Quốc ngữ vào năm 1918. Bước sang một khúc quanh khác khởi đầu từ năm 1914, nhà nho Thương thư Lệ thần Trần Trọng Kim (1882-1953) viết những tác phẩm Việt Nam sử lược I & II (1928), Nho giáo I & II (1930),Đường thi (1944),với...4000 năm văn hiến. Năm cùng tháng tận, theo bước chân đi cụ cuồng chữ Cao Bá Quát...nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ(10). Thôi thì năm hết Tết đến, thơ thơ thẩn thẩn học mót cụ cuồng chữ Cao Chu Thần với...nhai văn nhá chữ buồn ta, con giun còn biết đâu là cao sâu! (11) Bèn đốt lò hương cũ cảo mực đề văn với ao nghiên ruộng chữ tam sao thất bản cũng không ngoài...xếp tàn y lại để dành hơi. Nguồn: Võ Thu Tịnh, Trần Bích San, Nguyễn Thị Chân Quỳnh.. Phụ chú: (1)
- Trích thơ Cao Bá Nhạ (con Cao Bá Đạt, anh em sinh đôi
với Cao Bá Quát):
(2) - Tứ thư gồm có Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học và Trung Dung. Ngũ Kinh gồm Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch và Kinh Xuân Thu. (3) - Khởi đầu có tên là Văn thánh miếu, dựng tháng 8 năm Canh Tuất 1070 đời Lý Thánh Tông, phía tây nam thành Thăng Long, thờ Khổng Tử và Chu Công tại chính điện, thêm Tứ phối là Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư va Mạnh tử. Lúc đầu dậy con vua, sau mở khoa thi tam trường, cho quan viên, văn chức vào học nên được gọi là Quốc tử giám, trong số những học quan đứng đầu là Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An. Gia Long mở trường Quốc tử giám ở xã Yên Ninh, phía tây thành nội Huế, chính điện thờ Khổng Tử, hai bên là thần vị Tứ phối, phía đông và tây thờ Thập nhị triết, trước sân là tả vu và hữu vu, thờ Thất thập nhị hiền, phía nam là khu dựng bia tiến sĩ triều Nguyễn. (4) - Nguyễn Tuân đã nhầm lẫn ở hai khoa thi Hương: Khoa thi Ất Mão (1915) là khoa thi cuối cùng ở miền Bắc. Còn Khoa thi Mâu Ngọ (1918) là khoa thi cuối ở miền Trung. (5) - Muốn thi Hương phải qua một kỳ thi Hạch được quan Đốc học ở tỉnh tổ chức mỗi năm một lần. Ai đỗ mới được thi Hương và gọi là khóa sinh, nhiêu sinh. Từ đó dân gian mới gọi là "anh nhiêu, anh khóa. Ai đỗ đầu kỳ thi Hạch được gọi là "Đầu Xứ". (6) - Triều đình có thể lấy thêm người này bớt người kia hay thay đổi thứ bậc. Cao Bá Quát (1808-1854).đồ Á nguyên trường thi Hà Nội 1831, bị bộ Lễ xếp xuống cuối bảng. (7) - Chữ đẹp được tăng điểm, chữ xấu có thể bị đánh hỏng như trường hợp Nguyễn Văn Siêu người Hà Nội (1796-1872). Thi Hương đỗ đầu, bị xếp xuống hàng thứ hai. Thi Hội khóa đỗ tiến sĩ bị xếp xuống hàng phó bảng chỉ vì chữ "như gà bới". Tự Đức trêu: "Thần đâu mà chữ xấu như ma - Lem lọ cho người ngó chẳng ra - Nếu phải họa bù trừ quỷ tặc - Khôn thiêng thì hãy hộ Hoàng gia". (Theo Giai thoại Thăng Long). (8) - Sĩ tử trường thi Hà Nội gồm các tỉnh: Hà Nội, Hưng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng. (9) - Sĩ tử trương thi Nam Định gồm các tỉnh: Nam Định, Hải Dương và Quảng Yên. (10)-
Thời bấy giờ có ông Nguyễn Văn Siêu nổi tiếng là hay chữ.
Được biết ông Siêu dạy học ở Hà Nội, ông Quát từ Bắc
Ninh sang Hà Nội đến trường của ông Siêu dạy để nghe
giảng bài. Ông Quát tới nơi, đứng cửa sổ dòm vào, thấy
một ông đồ khoảng 25, 26 tuổi, ngồi trên một cái chõng
cũ siêu vẹo, học trò thì ngồi lê la dưới đất, chứng
tỏ là một lớp học nghèo. Thầy đồ Siêu nhìn thấy một
anh chàng trẻ tuổi chừng mười lăm, mười sáu, thơ thẩn
đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, thầy đồ hỏi: "Anh đi đâu
mà đứng ở đây?". Ông Quát trả lời: "Tôi là học trò đi
qua trường thấy thầy giảng văn muốn xin thầy cho vào nhập
học". Ông Siêu muốn thử tài học của Quát, bèn nói: "Nếu
thật anh là học trò, thì anh đối thử vế đối này":
(Trò nhỏ vào
sân trường, (đi) thẩn thơ, thơ thẩn, thẩn thẩn thơ thơ.
(11)
- Thơ Cao Bá Quát khi đi Tân Gia Ba 1843:
"Nhai
văn nhá chữ buồn ta - Con giun còn biết đâu là cao sâu! -
Tân-gia từ biệt con tầu - Mới hay vũ trụ một bầu bao la".
|
|