Ðặc
điểm đa dùng và chuyên dùng nghệ thuật đã bộc lộ quy
luật phát triển của chèo (cổ)
Nghệ
thuật chèo còn hằn lên không ít dấu vết của những trò
diễn dân gian, điệu múa dân gian, cả vô số lễ tiết của
phần cúng tế trong các hội làng vùng đồng bằng và trung
châu bắc Việt Nam. Ðấy cũng là một nguyên nhân nói lên
tính nguyên hợp của nghệ thuật chèo cổ.
Như lớp giáp đầu (vở chèo
cổ nào chả có) thì cả âm nhạc và diễn xuất, cả cách
hành văn cách dùng từ ngữ, thể thơ, đều thấy rõ có nguồn
gốc từ kết cấu của loại bài Giáo (như Giáo trốn, Giáo
đò, Giáo roi...) phát triển lên, đủ cả hát chúc, nín lặng
mà nghe tôi dẫn trích, vậy có thơ rằng - thơ làm sao... Như
ở nhiều trò trình mặt mà nội dung và hình thức (cả văn
chương và diễn xuất) hiện vẫn thấy trong kho hề chèo; với
vài chục Nhiêu Lai, Nhiêu Công, Nhiêu Hà, Nhiêu Tài,... ở những
trò trình nghề còn thấy trong các đám rước ngày hội làng
mấy vùng Phú Thọ, Sơn Tây, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hoá, và
chèo trở thành những Thày Ðồ, Thày Bói, Phù Thủy,... ở
những khuôn múa cổ tay, múa ngón tay, cả những đoạn múa
đèn, diễn trong hát múa cửa đình, múa quạt, múa đèn, múa
dâng hương, dâng hoa cúng Thần, cúng Thánh, ở nhiều làng
vùng Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Ðịnh,...
Ðừng quên, đến cách mạng 1945, nghệ nhân chèo vẫn dùng
từ ghim ghép hiểu theo nghĩa đen, để chỉ công đoạn phối
kết các trò diễn dân gian, những dân vũ dân ca, cả những
chi tiết của những trò ấy, điệu ấy làm thành diễn xuất
của cả từng lớp khi kể lại tích, xây dựng hình tượng
cho tiết mục.
Không phải ngẫu nhiên khi chèo
cổ phân ra 5 loại đóng chính là đào, kép, hề, lão, mụ,
nhưng "loại" vai mà sử sách thời Lý Trần đã chép rõ. Ðương
nhiên, từ vai làm cười của "Tổ sư" Sai ất "nhại" lại
dáng hình (và lời nói) một viên quan, một trưởng giả đến
khuôn trò của một hề Gậy với đủ các câu ra trò (với
tiếng Ðế), sang nói đếm kể sự tích tên mình, rồi "kết"
bằng "câu" ... con lại có thơ "để Bác hỏi"thơ làm sao" mà
vào ngâm... là cả quá trình sáng tạo, trau chuốt của lớp
nghệ nhân, cha truyền cho con, phường này sang phường khác,
vùng nọ đến vùng kia, mà có nổi những lớp diễn riêng
cho từng Hề gậy, Hề Mồi, Hề áo ngắn, Hề áo chùng.
Cũng vậy, từ những trò nhại
về Thày Ðồ, Thày Thuốc, Thày Cúng... còn thấy trong Hội
Trám (Phú Thọ), Hội trò Chiềng (Sơn Tây, Thanh Hoá) "tiến
lên" trở thành nhân vật Thày Ðồ, Thày Lang, Phù Thủy trong
chèo đâu phải chỉ do một hay vài nghệ nhân mà nổi ngay
đình đám. Những trò ấy hay những mảng của những trò ấy
vốn đã có hình có hồn ở mức đơn giản, dạng "bắt chước
hiện thực", nay vận dụng vào một tích truyện cụ thể,
nghệ nhân sẽ phải tìm cách làm cho hình đó rõ nét hơn,
hồn đó linh hoạt sống động hơn, là điều chắc chắn.
Chính con đường phát triển
đó của nghệ thuật kịch hát chèo, đã được cha ông đúc
kết dần thành đặc điểm chuyên dùng và đa dùng trong nghệ
thuật chèo cổ. Chuyên dùng là chỉ một nhân vật dùng; đa
dùng là nhiều nhân vật cùng thể loại hoặc khác thể loại
dùng.
Nghe và xem chèo cổ, ai cũng
nhận ra dễ dàng, rằng mỗi loại nhân vật cổ đều có những
nét bộc lộ sắc thái riêng, mang tính khái quát về một loại
người, bắt đầu bằng những câu nói ra trò, rồi xưng danh
báo tính, tiếp đến hát (và diễn) một bài nói lên bản
chất lớp người ấy.
Hãy nói loại vai tương đối
đơn giản không mấy giữ vị trí thật quan trọng trong tích.
Như nhân vật lão ở tầng lớp nghèo, thường là ông già
râu tóc bạc phơ, đầu quấn khăn lượt, mặt hồng hào, áo
lụa điều, quần lụa mỡ gà lá tọa hơi xếch, tay chống
gậy chân đảo bước giật cục, ngả nghiêng xiêu vẹo theo
đường gẫy, hát múa (đúng ra là diễn xuất cách điệu)
bình tửu, nét mặt tươi vui, thỉnh thoảng cười lên ha hả
thanh thản... Khuôn trò trên là cái lõi của những nhân vật
ông Mãng, ông Trinh, Lão Mốc,... Khi nghệ nhân vận dụng vào
những tích cụ thể sau đó, mà giá trị nghệ thuật của
chúng, còn do tài năng của người soạn tích và nhất là sức
sáng tạo trong diễn xuất của người đóng vai.
Như nhân vật mụ là bà lão
khăn đen mỏ quạ, áo xống thắt lưng xanh đen giản dị, lưng
còng, tay chống gậy, bước chậm, chốc lại tự đấm lưng
nhè nhẹ, hát câu hoài thai kể lại công sinh dưỡng con cái,
từ lúc mang thai tới nay trưởng thành, xong rồi mới ngẩng
lên hỏi: "Con mời mẹ ra đây có việc gì..." khuôn trò này
sẽ làm lõi cho những mảng diễn về Tống Mẫu (vở Tống
Trân Cúc Hoa), Trương Mẫu (vở Trương Viên),...
Như nhân vật thư sinh thuộc
loại vai kép chín thì khăn lượt, áo kép (trong lụa bạch,
ngoài the hoặc sa đen) quần trắng ống sớ, chân giày kín
ngón (một thời là giày Gia Ðịnh), tay quạt phe phẩy, mặt
tươi, bước khoan thai xênh xang, nói năng đúng mực, chữ nghĩa,
sau khi xưng danh báo tính là bắt sang hát cách bộc lộ chí
hướng "quyết tu thân "... Khuôn trò này được soạn
giả và nghệ nhân vận dụng vào từng tích cụ thể mà trở
thành những Trương Viên, Kim Nham, Tôn Dân,... để ra trò, tiếp
đó mới đi sâu vào chuyện tích; kép ngang ăn vận chải chuốt
hơn, nói năng huênh hoang, bước chân chữ bát phóng túng, cũng
xưng danh báo tính, nhưng không hát cách, như Trần Phương (vở
Kim Nham), Ðình Trưởng (vở Tống Trân Cúc Hoa), Biện Ðiền
(Phạm Tải Ngọc Hoa),...
Như nhân vật đào, loại nữ
chính thì khăn lụa vấn, áo chùng kép (ngoài the, sa đen, trong
lụa mỡ gà hoặc điều), thắt lưng bỏ núi, xuống đen bén
gót, dận dép quai ngang, bước khoan thai khép gối, tay che quạt
dấu mặt, trông thẳng, đi thẳng, vuông góc, từ trong buồng
trò cất câu sử bằng kể công cha mẹ, ra chiếu, dứt hát,
khép quạt hạ tay, cúi đầu thưa: "Trình cha, con đã ra hầu...".
Thị Kính, Thị Phương, Phương Hoa đều như thế. Loại nữ
lệch thì ăn vận diêm dúa, xống quét đất, áo mớ ba thả
vạt, dận dép, tay quạt che nửa mặt, mắt lúng liếng, sắc
lẹm, đi đứng nhún nhẩy chung chiêng, ngoắt ngoéo theo đường
sóng lượn, thường nói lệch, nói chênh xưng danh báo tính
rồi vào hát.
Dĩ nhiên, đấy mới là đận
ra trò, các nhân vật lão, mụ, kép, đào trên, nhất là loại
nữ lệch, còn sẽ được soạn giả và nghệ nhân "bổ xung"
những sự biến đòi họ phải nói ra tâm trạng (để vận
dụng hát múa), phải ứng phó và hành động (qua lối nói
và động tác cách điệu), mới có thể xây dựng thành những
nhân vật đủ sức treo gương sáng cho mọi người noi theo,
hoặc làm gương xấu để ngăn ngừa... Cũng thấy ngay một
điều, rằng mỗi loại nhân vật bước ra chiếu chèo thường
là dùng hát (nói lối cũng xem như hát) kèm theo kiểu diễn
xuất cách điệu tương ứng, để xưng danh báo tính và trình
bày ý chí cũng là ước vọng của bản thân ở độ khái
quát chung nhất, để sau đó, vào tích, mới bộc lộ dần
tính cách thuộc phạm trù đạo đức theo bản trò quy định.
Tức là mới chỉ ra trò mỗi
loại vai đã có làn điệu hát với diễn xuất riêng, không
dùng lẫn với nhau, song có thể vận dụng cho những nhân vật
cùng loại mang tính cách xuất phát giống nhau, nhằm hoàn thiện
khuôn diễn, khả dĩ "kể lại" đầy đủ con người mỗi cá
nhân Lão say chuyển thành ông Mãng thành Lão Mốc,... thư sinh
chuyển thành Trương Viên, thành Kim Nham,... nữ chính chuyển
thành Thị Phương hoặc Phương Hoa, với loại nữ lệch thì
cái đoạn ra trò ấy chưa là gì so với con người đúng thực
của họ...
Ai cũng biết hát (và nhạc)
giữ vị trí quan trọng trong nghệ thuật chèo, nói chính xác
là trong ngôn ngữ nghệ thuật chèo, nên xem xét mặt này cũng
có nghĩa phải kèm theo sự phối kết với múa và diễn kỹ.
ở nhiều vở cổ, thấy những làn hát sắp, hát sa lệch,
hát đường trường, hát vãn,... được nghệ nhân dùng cho
nhiều loại nhân vật cả thư sinh, lẫn đào và hề,... nhưng
tùy nhân vật và tình huống mà có diễn xuất tương hợp.
Thấy ra 2 cách vận dụng:
một, dùng lại y nguyên giai
điệu chỉ xê xích diễn xuất cho phù hợp mọi tình huống
nhân vật;
hai, do nội dung lồng vào yêu
cầu nghệ nhân đã "bẻ làn nắn điệu"cho khớp với "cái
mới" bằng cách thêm trổ tăng câu, dẫn đến sự ra đời
số làn "mới" song vẫn mang cốt cách của kết cấu cũ từ
đó hình thành cả hệ thống làn điệu, như hệ thống hát
sắp ngoài hát sắp (tất nhiên ra dời trước) là những sắp
chờ, sắp cá rô, sắp chênh, sắp chợ, sắp cổ phong,... hệ
thống sa lệch ngoài hát sa lệch, có sa chênh lệch, sa lệch
xếp, sa lệch chuyển cung bắc,... hệ thống đường trường
có những đường trường phải chiều, vị thủy, tiếng đàn,
bắn thước.
Những làn điệu nằm trong cùng
hệ thống, thường mang nét nhạc cơ bản giống nhau trên một
giai điệu vốn đã mang tính ca khúc hoàn chỉnh với kết cấu
trọn vẹn (phân câu, phân đoạn, kết thúc). Sự tăng câu,
tăng trổ làm gia tăng khả năng thể hiện, cũng là làm giàu
thêm kho tàng ca khúc chèo, trong khi vẫn giữ vững âm hưởng
và phong cách của làn điệu cũ cổ truyền. Xếp chúng vào
cùng một hệ thống vừa để tiện sắp đặt, vừa làm cơ
sở tiến tới tìm ra tình huống cụ thể đã buộc nghệ nhân
phải cái tiến cái "cũ" khi dùng lại. Có nghĩa, đã một lần,
mỗi lần trong hệ thống từng ở vị trí chuyên dùng khi thể
hiện tình tiết "mới" cho một nhân vật ở một tích nào
đấy mà hoàn cảnh vốn cũ truyền miệng không cho phép ghi
nhớ tên người sáng tác ra nó đầu tiên. Thành ra nhìn đại
thể, thì đấy là những làn điệu mang tính đa dùng, nhưng
thực chất, chúng từng giữ vai trò chuyên dùng mà có thể
lấy làm ví dụ rõ nhất, cũng có nhất là những bài hát
vãn, vãn canh, vãn xô đi sau than sử dùng trong vở Trương Viên,...
Lại có những làn điệu kết
hợp chặt chẽ với múa, với nhạc với động tác ước lệ
hoặc cách điệu, không những chỉ dùng riêng cho một nhân
vật mà trong một tình huống (như hát múa bình tửu với lão
say; hát hoài thai (và diễn xuất) với mụ nói sử và hát
cách với thư sinh;... vốn đã mang tính chuyên dùng) nhưng cao
hơn ở chỗ, đây là cả mấy làn điệu (và diễn xuất) chuyên
dùng châu tuần vào thể hiện tính cách một nhân vật, trong
khoảng khắc "cao trào" nhất của tình cảm ở tình huống
gay cấn nhất của họ, từ đấy tạo ra được những lớp
chèo đặc sắc đi vào kho tàng truyền thống của nghệ thuật
của kịch chủng.
Ðó là lớp Lên chùa của Thị
Màu với nói lệch và hát Cấm giá, nói lệch và hát Bình
thảo kết hợp máu thịt với múa và diễn kỹ cách điệu,
ước lệ, để mô tả hết sức hiệu quả hình ảnh cô gái
khao khát yêu đương đến nồng cháy, bạo liệt "với tất
cả tính dục nguyên thủy của bản thể con người". Lớp
Vân dại với những điệu hát (và diễn) Quá giang, Xuôi ngược,
Gà rừng, Lới lơ,... với những khuôn múa (và nhạc đệm)
như múa Ðiên ở nhiều cấp độ và chuỗi múa Hái dâu, Chăn
tằm, Kéo sợi, Dệt vải, May áo, tất cả kết hợp với diễn
xuất cách điệu ước lệ và qua "tài hát hay múa lạ" và
diễn kỹ đóng giả kẻ điện rồ, mà bộc lộ một cách
tuyệt vời, nỗi lòng rối ren khôn tỏ của người đàn bà
gạt nước mắt "quá giang". Hoặc lớp đánh ghen bằng vỉa,
hát, múa là chính (với những dậm chân, Suông hời, Thiếp
bỏ cho chàng, Có thánh trị vì, Bắt hò) mà chỉ diễn tả,
vô cùng sống động nỗi lòng cố nén nhưng từng lúc lại
bùng lên của người vợ từ Huế ra Bắc tìm chồng, bất
chợt bắt gặp "đức ông" đang cập kè với cô nhân tình
ngoài đường cái...
Những làn điệu khuôn múa dành
riêng để thể hiện các khía cạnh nội tâm hoặc hành vi
của mỗi tính cách kể trên đều mang đặc điểm chuyên dùng
rõ rệt. Do vấn đề miêu tả và thời gian cho phép, mà nghệ
nhân tập trung chúng tạo thành từng lớp chuyên dùng đặc
sắc, đa nghĩa. Là nói những mảng hay lớp trò sử dụng thiên
về nhạc và múa. Chứ nghệ nhân, vẫn trên nguyên tắc tùy
vai, tùy sự biến động, mà vận dụng linh hoạt mỗi thủ
pháp nghệ thụât nằm trong ngôn ngữ kịch chủng, để có
lớp thành công không kém. Như lớp việc làng chỉ dùng nói
lối, thường với nhân vật biểu trưng và động tác ước
lệ khoa trương, lớp Phú ông thử trống thử chiêng cũng chỉ
dùng dùng nói thường và động tác biểu trưng hoặc những
Hoàng Trừu nhạn vợ, Từ Thức về trần dùng xen kẽ múa
hát với diễn kỹ, những Xã Dốt hỏi vợ, Hề Tiểu... lại
dùng nhiều nói thường...
Thấy ra những tác phẩm thuộc
loại kịch hát kể chuyện đều có khả năng phân tách thành
nhiều mảng và mỗi mảng lớp nếu được người nghề bỏ
công tạo dựng đều có khả năng sống cuộc sống "độc
lập". Nghệ thuật chèo cổ thực sự đã chứng minh điều
đó, mỗi vở diễn là mỗi công trình "gim ghép" số mảng
miếng mà giá trị của chúng do mức gia công sáng tạo nghệ
thuật nhiều hay ít của nghệ nhân quyết định. Vận dụng
thủ pháp nào trội hơn là do sự nhận biết của họ về
yêu cầu thể hiện của bản trò và nhân vật, do khả năng
nghề nghiệp và sở trường cá nhân.
Ðây đó trong một số vở cổ
ở địa phương trước đây thấy dùng những hát ngang, hát
bốc, vãn non nai,... nhưng trong mấy hội nghị khai thác những
năm 1958, 1961, không thấy nghệ nhân nơi nào dừng lại. Trong
khi không ít bác "bằng lòng" cho Thị Kính hát ba than (đận
than dân trước lúc thế phát) có vể một làn điệu chuyên
dùng cho nhân vật trinh Nguyên hát trước bàn thờ chồng trước
khi lai Kinh, (thương chồng thương con thương thân ) và cho Tú
Bà nói lệch sang cấm giá bộc lộ bản sắc con người mụ,
là mấy làn điệu chuyên dùng của Thị Màu, mụ còn có bài
hát (và diễn) sắp chợt giành riêng, thuộc dạng "bẻ nắn
làn điệu" nằm vào hệ thống hát sắp)...
Từ những điều trình bày trên,
rút ra nhận xét là, cha ông mỗi khi dàn dựng tiết mục mới
đã căn cứ vào yêu cầu thể hiện của bản trò (khả năng
nghệ nhân trong phường) và vận dụng ba cách làm:
- dùng lại những thủ pháp
cũ (bao gồm làn điệu, khuôn múa, khuôn diễn) còn khả năng
mô tả khi kể tích mới ở tình trạng nguyên dạng với sự
tăng cường đáng kể diễn xuất.
- khi vận dụng vốn cũ thấy
có chỗ "không phù hợp" với tích mới thì mạnh dạn cải
tiến bằng cách bẻ làn nắn điệu đồng thời tăng cường
diễn xuất thích đáng (những hệ thống làn điệu ra đời
trong hoàn cảnh này).
- điều rất quan trọng là do
yêu cầu thể hiện những nhân vật, những tình huống trước
đấy chèo chưa có, mà nếu bẻ làn nắn điệu cũng không
đáp ứng nổi, nghệ nhân sẽ mạnh dạn sáng tạo những diễn
xuất mới phù hợp, mà nổi rõ hơn là ca hát múa. Những làn
điệu, khuôn múa chuyên dùng, những mảng, lớp chuyên dùng
chính đã ra đời các trường hợp này.
Như vậy trong một vở chèo
cổ được người nghề coi là truyền thống đích thực, luôn
có sự kế thừa, đúng ra là kết hợp thích đáng giữa hình
thức"cũ" với nội dung mới, để tạo dựng một phong cách
nghệ thuật thuần nhất cho tiết mục, cho kịch chủng. Cái
mới sẽ tùy yêu cầu thể hiện bản trò, tuy khả năng nghệ
nhân, tùy đòi hỏi thưởng thức của người xem địa phương
mà giữ vai trò nhiều hay ít. Khá nhiều vở mới dừng lại
hình thức cũ tràn lan, dẫu có dừng lại với sự "thông minh"
cũng không được nhà nghề và người xem quan coi trọng. Chưa
thấy trong vốn cũ, vở chèo nào "tung hê" toàn bộ nghệ thuật
diễn xuất cha ông để lại (trừ một lần, chèo cải lương
thử nghiệm"viết nhạc mới tối tân riêng" cho vở Ðôi chữ
đồng tâm, nội dung có ý "xoa vuốt" thực dân Pháp, song bị
thất bại thảm hại, và chèo mới thử dụng Cô gái giải
phóng năm 1964 rồi gần đây có mấy đơn vị làm thử loại
ca - kịch - mới...)
Cũng từ tình hình trên, phát
lộ quá trình chuyển hoá nghệ thuật từ chuyên dùng sang đa
dùng tuy chậm chạp, lắm khi lẻ tẻ, song mạnh dạn, với
xu thế ngày càng chiếm số nhiều tương ứng với đề tài
mới khai thác, như vở Sợi tơ vàng đã dùng hơn 20 điệu
chèo hay nhất trong vốn cổ chẳng hạn. Trong thời kỳ không
ngắn, việc dùng lại những hình thức "chuyên dùng" để thể
hiện tính cách mới đã làm chúng loãng dần sắc thái và
tác dụng, để sau nhiều lần ở vị trí đa dùng, sức mô
tả thể hiện của chúng sẽ không còn bao nhiêu, chúng có
thể gây màu sắc và âm hưởng chung cho kịch chủng.
Thấy như đặc diểm đa dùng
và chuyên dùng nghệ thuật của chèo muốn chứng minh nguyên
lý, là nội dung mới đòi phải có hình thức tương hợp.
Song chèo cổ, trong điều kiện và hoàn cảnh xã hội nông
nghiệp lạc hậu nhiều mặt, không chủ trương đổi mới
hình thức đồng loạt, ngay lập tức, mà chỉ mới cải tiến
chuyển hoá tuần tự, tiếp nối, mà chỉ mới cải tiến chuyển
hoá tuần tự, tiếp nối, trong đó sự lập lại kế thừa
đi song song với sự phát triển, sáng tạo, nhằm vào xây dựng
một kết cấu nghệ thuật đủ sức thể hiện và thể hiện
tốt tích mới, làm nổi rõ chủ đề và hình tượng do bản
trò hoạch định đòi hỏi.
Vậy có thể nói đặc điểm
chuyên dùng và đa dùng nghệ thuật chứng tỏ, đúng ra là
bộc lộ quy luật phát triển của chèo cổ.