Chèo
thuộc loại sân khấu kể chuyện (Việt Nam), hay nói rõ hơn
loại sân khấu kịch hát kể chuyện dân tộc
Nghệ
nhân vừa bước vào chiếu chèo đã nói rõ là sẽ kể lại
câu chuyện (đã xảy ra) bằng trò diễn, để khán giả qua
đấy mà khách quan nhận xét những sự hay dở, phải trái
trong suy nghĩ và ứng phó của nhân vật. Họ vừa thưởng
thức tài nghệ người đóng vai, từng lúc thông cảm hay xúc
động trước tình huống hoặc sự biến mà nhân vật nhận
chịu, đang thể hiện trên chiếu, vừa nhắc nhau phẩm bình
diễn kỹ của nghệ nhân hoặc tự rút ra bài học thiết thân
trong cuộc sống thường ngày.
ở vở cổ nào cũng vậy, ngay
trong lớp giáo đầu, sau câu hát chúc "trăm họ câu ca cổ
vũ" hoặc dân làng "bình an khang thái" là tiếp đến:
Nhớ xưa tích cũ
Có một chàng tên gọi Trương
Viên
Nghệ nhân ra chiếu là dễ dàng
xưng danh nói tên tuổi gia thế khát vọng cho khán giả biết
sẵn nhân vật mình sắm thuộc loại người nào:
Tôi họ Chu tên gọi Mãi Thần
Tài học đà thông kinh quán
sử,
Tuổi đã cao, nhà lại khốn
khó,
Ðấng trượng phu, sinh chửa
gặp thì...
Tiếp theo là các sự biến xảy
đến tuần tự, làm cớ cho nhân vật bộc lộ suy nghĩ và
hành động. Số sự biến này, về gốc gác không có "dây
mơ rễ má" gì với nhau, nghe qua tưởng chúng là những hiện
tượng xã hội xảy đến ngẫu nhiên; song xét kỹ chúng phải
được đặt đúng theo trình tự đã do bản trì sắp xếp
mới chứng minh được đạo đức nhân vật, từ mỏng đến
dày, kỳ tới khi đạt yêu cầu giáo huấn mà toà soạn giả
đề ra cho bản trò. Hay nói khác đi, cách chọn lựa và trình
bày những sự biến trong một tích với cách ứng phó của
mỗi nhân vật đều có đặc điểm khuyến giáo đạo đức
chi phối. Nhìn bên ngoài, những sự được xếp theo thứ tự
tự nhiên, không xáo trộn việc sau đi lên việc trước.
Tỷ như Thị Phương được
phát lộ phẩm chất để xứng đáng là "nàng dâu nuôi mẹ
thế gian mấy người", qua mấy sự biến:
một, dọc đường chạy giặc
bị đói, nàng cắt thịt cánh tay đem nấu cháo dâng mẹ
hai, vào động Qủy bị Quỷ
đói ăn thịt, nàng kể lệ sự tình, được Quỷ vợ thương,
xin Quỷ chồng tha và cho vàng;
ba, gặp Hổ bị Hổ đòi
ăn thịt 1 trong 2 người, mẹ và con đều dành nhau xin chết,
làm Hổ thông cảm mà tha cả hai.
bốn, Thần rừng đòi nàng
khoét mắt làm thang thuốc chữa bệnh cho mẹ, nàng vâng chịu
và bị mù...
Hoặc Châu Long nuôi bạn thay
chồng 3 năm dòng, đã ở danh phận "vợ chồng" với Lưu Bình,
phải chịu 3 lần thử thách mỗi khi chàng đòi giao hoà, và
phải có cách từ chối khôn khéo làm sao không làm mếch lòng,
trái lại càng tâm phục, xứng đáng là người phụ nữ "dạ
sắt gan vàng"
ở mỗi nhân vật trên, xét
nguyên nhân nội tại, các sự biến xảy đến với họ dường
như không dính dáng với nhau; chúng xảy đến ngẫu nhiên chẳng
khác chuyện đi đường bị phân chim rơi xuống đầu. Có điều
mỗi sự biến đó đòi hỏi nhân vật phải có suy nghĩ và
ứng phó chứng minh một khía cạnh phẩm cách; và các khía
cạnh phẩm cách bộc lộ sau khi giải quyết sự biến đó,
cần theo trình tự của bản trò quy định, để đạo đức
nhân vật dày lên từng lần, kỳ tới khi đạt đủ mức giáo
huấn của bản trò. Mọi sự thể hiện lẫn lộn trật tự
trên dưới các sự biến đã chọn lựa, sẽ chỉ làm giảm
sút hiệu quả sân khấu, vi phạm vào quá trình chuyển hoá
tâm lý môi sinh vẫn quen quan niệm ở địa bàn.
Là xét mối quan hệ cơ khí
giữa các sự biến trong quy trình bộc lộ đạo đức mỗi
nhân vật chèo. Chứ nhìn tổng quát cả đời một nhân vật
thì thấy chúng vẫn nằm trong luật nhân quả thông thường;
người tốt trước sau sẽ đạt hạnh phúc cá nhân, nhiều
khi là hạnh phúc cả gia đình; kẻ xấu sẽ chịu hậu quả
chẳng ra gì Trong khi kịch dram đòi sự đối đãi nhân quả
ngay giữa các sự biến trước sau, dắt dây chúng lại để
rồi cùng nằm trong chuỗi sự biến của mối mâu thuẫn đã
biến thành xung đột mà tác phẩm khai thác...
Cũng vì không ràng buộc vào
mối xung đột đang phát triển từ thấp lên cao, mà từng
sự biến của chèo có thể tách ra biểu diễn độc lập,
và tùy giá trị nghệ thuật (nội dung, diễn xuất) mà nổi
lên từng mảng, lớp (nay gọi là trích đoạn). Có điều các
mảng lớp này phải được se nối vào một tích trò có đầu
đuôi, có kết hậu, làm cho ai xem cũng nhớ và kể lại được
câu chuyện về một hay đôi người sống đạo đức hay không
có đạo đức; kèm theo vô số cảnh đoạn bài câu hát ,về
những hiện tượng trái tai chướng mắt, xảy ra trong sinh
hoạt thường ngày ở nông thôn hay cung đình chùa đền. Do
đó, không ít câu chuyện cổ trong dân gian được các ông
Trùm, bác Thơ, nghệ nhân tài năng soạn lại thành bản trò.
Chuyện cổ ở đây có thể mới ở dạng ngắn hoặc vừa,
như số chuyện ghi lại trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích
quái, cũng có thể là số truyện thơ nôm dài khá phổ biến
trong xã hội ta mấy thế kỷ XVII, XVIII, như Phạm Công Cúc
Hoa, Hoàng Trìu ,...
Trong quá trình kể lại, việc
lược bỏ, kể lướt hoặc nhấn mạnh vào tình tiết hay sự
biến nào là hoàn toàn tùy thuộc vào yêu cầu của chủ đề
tiết mục, để tích truyện thích hợp với đặc điểm nghệ
thuật kịch chủng mà thêm cô đọng, hấp dẫn.
Vì phải kể lại câu chuyện
bằng diễn xuất chèo, nghệ nhân không có ý gây cho người
xem tưởng nhầm những sự biến đang "xảy ra" trên chiếu
diễn là cuộc đời thật, đến mức tê liệt tính năng động
chủ quan mà đi tới hoà nhập, tự nguyện làm "tù binh" cho
tác giả và đạo diễn (như kịch dram'). Trái lại, nghệ nhân
chèo nói rõ và đúng mọi cách để khán giả giữ nguyên trí
sáng suốt, bám chắc vào cương vị khách quan, mà cùng họ
khảo sát, đánh giá tích hát, đánh giá hành động của nhân
vật. Không ít khi, khán giả còn giúp đỡ nghệ nhân thể
hiện tốt hơn vai đóng (qua tiếng đế, tiếng trống khẩu,
trống chầu,...) góp phần thúc đẩy buổi diễn tiến triển
một cách phóng khoáng, thích thú sinh động.
ở chèo, khán giả và nghệ
nhân cùng đứng về một phía mà định giá, thẩm xét lại
tích truyện đang trình diễn. Bằng những lời xưng danh báo
tính, những tiếng Ðế hỏi, Ðế hứng, những câu làm cười...đôi
bên giúp nhau dẫn truyện, nhắc nhau tỉnh táo theo dõi và thể
hiện câu chuyện sao cho linh hoạt. Từng lúc gặp chỗ "đất
tốt" mà soạn giả dành sẵn, nghệ nhân lại vươn lên đóng
vai "giống như lột" cốt gây cảm xúc cần thiết cho nhữnh
người ngồi thưởng ngoạn vây quanh thống khoái mà ngấm
trò. Nghệ nhân không quan tâm nhiều đến "bản thân" sự biến,
chỉ thụ động nhận chịu, nhưng phải có cách ứng phó với
những tác dộng của sự biến đó sao cho hợp tình hợp lý,
chẳng những" bảo toàn"mà còn làm lộ phẩm chất (đạo đức)
con người nhân vật, còn nguyên nhân đưa sự biến đến cho
"mình" thì đổ tại "hoàng thiên", "tạo hoá xoay vần",... Do
đó, các sự biến có sự tách biệt dễ dàng làm thành những
"lớp diễn" riêng, như chèo (cổ) có vô số lớp mà ngày nay
quen gọi là trích đoạn khả dĩ bứt ra trình bày "độc lập":
lớp Phù thủy, lớp Việc làng, lớp đánh ghen...
Những sự biến"ngẫu nhiên"
được" soạn giả" chọn lọc sắp xếp làm thành bản trò,
nhằm vào một chủ đề nhất quán, trên nguyên tắc làm sao
cho phẩm chất nhân vật chính yếu, thứ yếu ngày càng sáng
rõ, và từ sự biến đó, nghệ nhân thể hiện thành những
lớp trò, rồi tùy quan điểm và nhận thức (đối với bản
trò) và tài năng của những người ghim ghép chúng thành một
vở diễn tổng thể, mà đưa ra công chúng tiết mục mạch
lạc, chặt chẽ hoặc bề bộn rối ren. Nói nhân vật chính
thứ yếu vì trong số nhiều vở cổ, nhân vật thứ yếu lại
là người "làm nên" thân chuyện của tích, trong khi nhân vật
chính yếu chỉ như "chủ hờ" là "cột cái" trong gia đình
và có mỗi một việc; đi học, đi sứ, đi đánh giặc hoặc
làm quan, như Thị Phương trong vở Trương Viên, Châu Long trong
vở Lưu Bình Dương Lễ, Cúc Hoa trong vở Tống Trân Cúc Hoa
...
Ðừng quên, cả những câu chuyện
"vừa xảy ra" hay "có thể xảy ra" khi được khai thác để
soạn thành bản trò, cũng phải "cũ hoá", tức đẩy lùi về
thời quá khứ, ngó hầu nhà nghề, trước hết là soạn giả,
có thêm điều kiện mà vận dụng số lề thói truyền đời
của loại sân khấu kể chuyện, như "nhớ xưa tích cũ" "vậy
có thơ rằng" "xưng danh báo tính" đế hỏi tung hứng "...Ðấy
cũng là số quy tắc đòi người đóng vai, dẫn tích phải
tuân thủ, đồng thời gợi nhắc khách xem thưởng thức nghệ
thuật năng động.
Cho nên nói chèo thuộc loại
sân khấu kể chuyện dân tộc trong đó, nghệ nhân sử dụng
linh hoạt sáng tạo các yếu tố tự sự, trữ tình, hài hước,
phối hợp trong một kết cấu kịch hát độc đáo. Ðánh ngang
bằng thể loại kịch hát kể chuyện dân tộc (Việt Nam) với
yếu tố tự sự cũng như yếu tố trữ tình, yếu tố hài
ước là không thỏa đáng. Vì quá trình phát triển của các
loại hình nghệ thuật Tự sự (épique), Trữ tình(lyrique) đến
Kịch(théâtre) đã coi là những bước tiến mang tính quyết
định thể loại. Chèo là loại kịch hát nhưng vẫn rất coi
trọng và sử dụng hiệu quả những yếu tố tự sự, trữ
tình, hài ước, ngay khi biết kết hợp các hình thức nghệ
thuật khác (như giáo, chèo đò, trò diễn dân gian, bao gồm
cả những trò trình mặt, trò trình nghề ...) để tạo thành
một loại kịch hát và từng bước chuyển hóa sáng tạo mà
"tiến lên". Cái lõi kịch bộc lộ qua số vở có truyền thống,
thấy có mức gia tăng rõ dệt, như từ sự nhận chịu thụ
động của mẹ con Thị Phương trước những lục lượng hắc
ám thiên nhiên, của xã hội, của Thị Kính chịu "nhẫn "
trước thái độ lấp trùm của mụ Sùng, trước sự trơ trẽn
của Thị Màu, đến "đụng độ" âm thầm nhưng không kém
kịch liệt giữa Cúc Hoa và Trưởng Giử, giữa Châu Long và
Lưu Bình,... hoặc đụng độ công khai gay gắt vẫn ở mức
"nhẹ nhàng" giữa Thị Màu với Thị Kính qua tiếng mõ, giữa
Súy Vân với Kim Nham qua lời lẽ diễn,... đến cuộc đối
mặt quyết liệt "nảy lửa" giữa Ðào Huế với Tuần Ty và
nhân tình...