Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] [ Trang chủ ]
PHÂN KỲ LỊCH SỬ VĂN HỌC NHÌN TỪ ĐIỂM ĐẦU CỦA THẾ KỶ XXI
|
Phân
kỳ lịch sử văn học bao giờ cũng là một vấn đề có sức
hấp dẫn đối với người viết văn học sử, bởi
đó là cái chìa khóa then chốt để có thể nhận diện văn
học như sự nối tiếp của nhiều tiến trình. Ở điểm bắt
đầu của thế kỷ XXI này, chắc có lẽ người nghiên cứu
văn học nào cũng muốn nhìn lại, muốn có một sự hình dung
tổng quát về các bước đường đã qua của văn học Việt
Nam trong vòng 11 thế kỷ, chí ít là trong một thế kỷ vừa
mới kết thúc, để dự liệu bước đi của nó trong thế
kỷ đang tới.
Bản thân người viết bài này tuy đã ba lần bàn đến phân kỳ lịch sử văn học dân tộc vào các năm 1985(1) , đầu 1990(2) và cuối 1990(3) nhưng giờ đây vẫn cứ muốn xem xét lại chỗ sai chỗ đúng, chỗ khả thủ và chỗ bất cập trong nhận thức của chính mình, trên vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ kỹ thì đây là một vấn đề không đơn giản. Bởi lẽ, trong 15 năm qua đã diễn ra những sự kiện đảo lộn có tầm thế giới, có khả năng làm thay đổi quan niệm của chúng ta về cấu trúc lịch sử, trong đó có cấu trúc của lịch sử văn học. Nếu nói thật khoa học thì yêu cầu đặt ra là phải nhìn lại cái đã diễn ra như nó có bằng một hệ quy chiếu mới thay thế cho hệ quy chiếu cũ đã mất sức thuyết phục, và do đó, nhiều điều phải nhìn lại tận gốc và nhìn lại từ đầu. Vì thế, bài viết này chưa có tham vọng giải quyết tất cả mọi vấn đề của phân kỳ lịch sử văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X cho đến tận hôm nay. Chúng tôi chỉ xin nêu lên mấy gợi ý về một số mốc phân đoạn văn học viết Việt Nam qua các thời kỳ, và tất nhiên là còn rất sơ lược. |
|
Trước hết xin
trở lại với một vài nguyên tắc chung về việc phân kỳ
lịch sử văn học mà tôi đã từng đề xuất. Cần nói rằng,
quan tâm đến vấn đề này về mặt lý thuyết, không phải
chỉ có mình tôi mà còn có các nhà nghiên cứu khác. Ngoài
những học giả đi trước, cùng một thời điểm với tôi
còn có các Gs. Nguyễn Lộc (4)
, Trần Đình Hượu (5) ,
Đỗ Đức Hiểu (6) , và
gần đây hơn cả là Gs. Trần Đình Sử (7).
Trong chừng mực nào đó, khi trình bày vấn đề, tôi sẽ kết
hợp đề cập đến ý kiến của các ông.
Khác với nhiều ý kiến muốn coi phân kỳ văn học hoàn toàn trùng hợp với việc tìm tòi các dạng thức biểu hiện của những quy luật đặc thù đã chi phối sự vận động của mọi tiến trình văn học sử, tôi cho rằng phân kỳ chủ yếu là đi tìm những quy ước thuận tiện nhất, nhằm trình bày một cách sáng tỏ các chặng đường lớn nhỏ của lịch sử văn học Việt Nam. Bởi lẽ, theo tôi, tìm cho được cái quy luật của chính văn chương đã chi phối các hiện tượng, các trào lưu... diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó, để ấn định rằng đó đích thực là một giai đoạn hoặc một thời kỳ văn học có tính độc lập tương đối, là việc lý tưởng nhưng không kém khó khăn. Một giai đoạn văn học bao giờ cũng được hình thành do nhiều yếu tố, có yếu tố nội tại và có yếu tố bên ngoài, có cả những yếu tố ngẫu nhiên, mà nhìn cho ra cái nào là bản chất nhất, đâu phải dễ dàng. Có khi giữa một chặng đường này và một chặng đường kế tiếp, diện mạo và chiều hướng của văn học có vẻ vẫn giống nhau, trách nhiệm xã hội và yêu cầu mỹ học đối với văn chương vẫn chưa thay đổi, nhưng sâu bên trong, do tác động thầm kín của lịch sử, chuyển động của sáng tác đã không còn như cũ. Bảo rằng đấy vẫn chỉ là một giai đoạn thôi thì đành là không ổn, song để phân suất cho được đâu là phẩm chất cốt lõi làm nên bước ngoặt mới, nếu chúng ta thực sự cầu thị chứ không gò gẫm khiên cưỡng, chỉ cốt nói lấy được, hẳn chưa chắc đã dám nói quyết đấy là gì. Mặt nữa, văn học thường bao giờ cũng diễn biến theo quy luật tiệm tiến, thảng hoặc lắm mới chứng kiến một bước tiến nhảy vọt, một đột biến khác thường. Và giữa quá trình sau với quá trình trước bao giờ cũng có sự giao thoa, xen kẽ, chứ ít khi đứt đoạn. Đem một cái mốc cắm vào cho lịch sử văn học, vô hình trung ta đã tạo ra một mặt cắt trái với tự nhiên, làm cho văn học không còn phản ánh đúng sự vận động tự thân của nó. Vì thế, dựa vào ý kiến của Karl Marx trong "Lời nói đầu" bộ Tư bản phân biệt lôgic nghiên cứu và lôgic trình bày, rằng lôgic trình bày cần phản ánh lôgic nghiên cứu nhưng không nhất thiết theo sát lôgic nghiên cứu, tôi cho rằng phân kỳ lịch sử văn học là thuộc về lôgic trình bày. Nó là quy ước nhận diện và trình bày lịch sử văn học. Tất nhiên, đã là quy ước thì không ai lại nghĩ rằng chỉ có một cách trình bày nào đấy là tuyệt đối đúng. Nếu như lôgic nghiên cứu giúp ta nhận thức bản chất của sự vận động thì lôgic trình bày giúp ta miêu tả bản chất ấy bằng các hình thái vận động tương ứng, qua đó người đọc có thể tiếp nhận đối tượng một cách nhất quán, phù hợp với nhận thức của mình. Tùy theo tính chất từng loại quy ước mà lôgic trình bày có thể rất khác nhau, miễn sao quy ước - từ bên ngoài đối tượng - phải nhập thân vào đối tượng và soi rõ trình thức và bước đi của đối tượng. Mỗi bộ văn học sử tuân thủ một quy ước trình bày riêng, cũng tức là xác định phương pháp loại biệt của bộ sử đó, trên cơ sở một đối tượng chung là lịch sử văn học. Xét trên phương diện này, quy ước trình bày nào cũng có thể phát huy được ưu điểm nếu được sử dụng đúng đắn, trong đó không loại trừ cách trình bày văn học theo thế kỷ hay theo triều đại mà các nhà viết văn học sử trước Cách mạng tháng Tám đã từng làm, vốn cũng khá thích hợp với số đông bạn đọc chúng ta quen tư duy theo thời gian, theo thập kỷ và thế kỷ, hoặc quen nhận diện quá khứ theo tên gọi của các vương triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Ý kiến trên đây của tôi nêu ra cách nay đã 15 năm, năm 1990 được bổ sung và viết lại để in vào cuốn Các vấn đề của khoa học văn học do PGs. Trương Đăng Dung chủ biên. Không ngờ trong bộ sách này cũng có một bài viết của Klanixoi Tiborơ bàn về khái niệm thời kỳ văn học; tác giả người Hung đó cũng tóm lược hai chủ trương phân kỳ đối lập nhau trong văn học sử châu Âu gần đúng với tình hình giới nghiên cứu nước ta cùng thời điểm trên (8) . Cần nói rằng ở miền Nam trước 1975, học giả Thanh Lãng đã từng có một quan niệm phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam tương đối thấu đáo. Trong sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam công bố năm 1967, sau khi điểm lại cách phân chia thời kỳ văn học của các bộ văn học sử đã xuất hiện cho đến đầu những năm 60 (kể cả các bộ văn học sử của miền Bắc), Thanh Lãng đã đưa ra một nguyên tắc then chốt làm tiêu chí phân kỳ cho mình : "Chúng ta không võ đoán, đề cao hay chối bỏ một tiêu chuẩn nào trong các tiêu chuẩn mà các nhà đi trước áp dụng như tiêu chuẩn triều đại hay thế kỷ, nhưng chúng ta chỉ chấp nhận là tiêu chuẩn khi nào quả thực cái tiêu chuẩn ấy có bế mạc hay khai mạc một cái gì gọi là cái vốn chung cho một thời đại và riêng biệt cho chính thời đại ấy" (9) ; "Nói tóm lại, tiêu chuẩn của chúng ta theo để chia thời kỳ cho văn học là lựa chọn một niên lịch nào đó (có thể là một niên lịch chính trị, lịch sử, văn học, hay thế kỷ) đã xô đẩy những biến cố văn học - tôi nhắc đến bốn chữ biến cố văn học - khiến cho với những biến cố ấy, niên lịch ấy : - Một đằng, bế mạc sự diễn hành của một hay những hiện tượng văn học của một thời đại; - Một đằng khai mạc sự xuất hiện của những hiện tượng mới trở thành như một cái vốn, cái gia tài chung cho cả một thời đại vừa khai mạc; - Đằng khác ghi nhận được cá tính của thời đại đó như là một xuất hiện đặc thù, khác thời đại mà nó bế mạc và khác luôn cả thời đại mà rồi đây sẽ bị thay thế. Tuy vậy, trong lĩnh vực văn học có khi còn phải linh động hơn ở những địa hạt khác, khi ta chọn một niên đại làm điểm khởi cho một thời kỳ văn học thì ta nên hiểu nó một cách tương đối, có nghĩa như là những năm quanh quẩn đó, hoặc trước một tý hoặc sau một tý, chứ không hiểu một cách máy móc là chính ngày đó, tháng đó, năm đó. Đằng khác, khi bảo bước sang một thời kỳ mới không phải bảo rằng mỗi thời kỳ mới phải là một đường ranh giới rạch đôi, xé rách nếp sống một phần nào vẫn liên tục của văn học. Như cuộc sống của một đoàn thể trước mỗi biến cố, đều có thể thay đổi, biến hóa nhưng chẳng khi nào đi từ cái không này qua cái không khác, cuộc sống văn học qua mỗi thời đại có mang những sắc thái đặc thù, nhưng cũng chẳng bao giờ hoàn toàn gián đoạn với dĩ vãng" (10) . Có thể thấy, những nguyên tắc mềm dẻo do Thanh Lãng đề khởi rất phù hợp cho việc lựa chọn một cách linh động các chặng mốc văn học, và về căn bản không khác biệt nhiều lắm với những nguyên tắc mà chúng tôi đã gợi ý về tính chất ước lệ không tránh khỏi của việc phân kỳ văn học sử Việt Nam. Gần đây, khi được
đọc bộ Trung Hoa văn học thông sử
10 quyển do Sở nghiên cứu văn học Trung Quốc thuộc
Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn năm 1997,
một thực tế càng làm cho tôi phải ngẫm nghĩ là các nhà
văn học sử Trung Quốc thuộc thế hệ hôm nay chứ chưa xa
xôi gì, đã chọn cách phân kỳ theo triều đại để tiếp
cận một thời kỳ dài hơn 2000 năm của văn học Trung Hoa.
Trong bộ sách này, các tác giả đã phân chia lịch sử văn
học Trung Quốc từ thời Xuân thu Chiến quốc đến giữa thế
kỷ XIX (1840) thành bảy giai đoạn :
|
Điều đáng đặt dấu
hỏi là khoa lịch sử văn học Trung Quốc đã có từ rất
lâu và thành tựu phong phú hơn hẳn chúng ta, việc tiếp xúc
của giới văn học sử gia Trung Quốc với khoa học phương
Tây tất nhiên cũng thuận lợi hơn chúng ta rất nhiều. Vậy
mà tại sao sau bao nhiêu năm tìm tòi, họ vẫn quay trở lại
thừa nhận những cách phân kỳ có thể nói là
cổ
điển nhất? Phải chăng như tôi đã nói, phân chia
lịch sử văn học rốt cuộc chỉ là quy ước, quy ước nào
làm nổi bật được dòng chảy của lịch sử văn học và
làm cho người đọc dễ tiếp nhận thì quy ước đó trở
nên thông dụng ?
Nhưng thật ra, ngay đối với những nhà văn học sử Tây Âu đương đại, vấn đề phân kỳ văn học sử cũng được quan niệm khá thông thoáng, không mấy "tân kỳ" đến như ta tưởng. Nếu quan điểm của Lanson - chủ yếu là chia văn học theo thế kỷ - đã ngự trị bộä môn lịch sử văn học Pháp và châu Âu từ cuối thế kỷ XIX cho đến tận đầu những năm 1960 (13) , thì ở nửa cuối thế kỷ XX đã có thêm nhiều cách phân chia khác mà về mặt lựa chọn tiêu chí, có vẻ rộng rãi và ít gò bó hơn. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của M. H. Abrams, Gs. Trường đại học Cornell, in lần thứ 7 năm 1999, phát hành ở cả Mỹ, Anh, Canađa, Úc và Nhật, khi xác định "các thời kỳ của văn học Anh", đã đưa ra một đồ biểu phân kỳ "có giá trị phổ biến trong thực tế" (widespread pratice), gồm 10 thời kỳ lớn, trong đó sự khu biệt giữa các thời kỳ không chỉ căn cứ ở đặc trưng văn học mà nhiều khi còn dựa vào ngôn ngữ, vào triều đại lịch sử, vào biến cố chính trị xã hội : 1.
Thời
kỳ Anh ngữ cổ: 450-1066;
Cũng sách trên, khi nói về "các thời kỳ của văn học Mỹ" đã trích dẫn ý kiến của Cushing Strout, cho rằng "qua lịch sử chính trị của nước Mỹ có thể tìm thấy một hệ thống trật tự sáng rõ và có tính chất thuyết phục hơn là cái hệ thống trật tự được chỉ ra bởi những sự kiện đặc thù của văn học hay những phạm trù tri thức"(15) . Trên tinh thần đó, theo Abrams, các nhà văn học sử Mỹ đã đưa vào lịch sử văn học Mỹ các mốc lớn như thời kỳ Chiến tranh cách mạng (1775-1781), thời kỳ Nội chiến (1861-1865), thời kỳ Thế chiến I(1914-1918), thời kỳ Thế chiến II (1939-1945), còn thời kỳ từ 1775 trở về trước thì được gọi là thời kỳ Thuộc địa (đế quốc Anh thống trị). Ngoài ra, văn học của người da đen và trào lưu văn học nữ giới cũng có địa vị đáng kể, không thể gạt ra ngoài các chuẩn mốc phân kỳ(16) . Xem thế đủ hiểu, đối với việc phân kỳ văn học sử, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây hầu như chưa có ai vận dụng thuần nhất một tiêu chí, và về phương pháp luận, cũng chưa ai bỏ qua nguyên tắc ước lệ như một sợi chỉ đỏ, không cần bàn bạc mà trong thâm tâm ai cũng tuân thủ. |
|
1.
Tôi xin nêu lên một luận điểm thứ hai : về cách mệnh danh
các thời kỳ khác nhau trong văn học sử Việt Nam. Trong cuộc
thảo luận khoa học về phân kỳ lịch sử văn học Việt
Nam vào năm 1985 do Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp
Hà Nội chủ trì, có bốn ý kiến cũng là bốn tham luận chính
trong Hội thảo, sau đó đã được đăng trên
Tạp
chí văn học(đã dẫn), trong đó, trừ ý kiến của
Gs. Đỗ Đức Hiểu chủ trương phân chia văn học sử Việt
Nam thành hai thời đại lớn - thời đại từ thế kỷ X đến
hết thế kỷ XIX và thời đại từ đầu thế kỷ XX trở
về sau; mỗi thời đại được đánh dấu bằng một phong
cách lớn : thời đại thứ nhất là phong cách được đặc
trưng bởi các sáng tác tiêu biểu trong chặng đường nửa
cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX và thời đại
thứ hai là phong cách mang đậm dấu ấn sáng tác của Hồ
Chí Minh - còn lại ba chúng tôi, Nguyễn Lộc, Trần Đình Hượu
và tôi, chúng tôi đều chia văn học thành ba thời kỳ : thời
kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, thời kỳ
văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945 và thời kỳ văn học
từ 1945 đến nay. Về cách gọi tên, thời kỳ văn học từ
đầu thế kỷ XX đến 1945 chúng tôi đều nhất trí gọi là
thời Cận đại. Thời kỳ văn học từ 1945 đến nay, Nguyễn
Lộc và Trần Đình Hượu gọi là thời Hiện đại, còn tôi
gọi là thời Hiện đại và Đương đại. Chỉ có thời kỳ
văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX thì cách gọi
thật sự có khác nhau. Nguyễn Lộc gọi là thời kỳ văn học
Truyền thống. Trần Đình Hượu không gọi tên nhưng có nhắc
đến hai từ Cổ đại và Trung cổ và sau này, trong một bài
viết khác, ông lại trở lại cách gọi "văn học Truyền thống"
của nguyễn Lộc, đồng thời nhiều lần nhắc đến cụm
từ "văn học Cổ điển"(17)
. Riêng mình tôi, đã gọi đây là văn học Trung đại. Mỗi
một cách gọi tên ít nhiều đều xuất phát từ một sự
suy nghĩ có cân nhắc chứ không phải cảm tính. Nguyễn Lộc
nói : "Chúng tôi gọi thời kỳ thứ nhất trong văn học dân
tộc là thời kỳ văn học truyền thốngvà
các thời kỳ sau là cận đại,
hiện
đại không phải tùy tiện, mà với dụng ý để
mọi người thấy thời kỳ thứ nhất văn học dân tộc chưa
đi vào quỹ đạo chung của văn học thế giới, mà vẫn có
tính cách văn học khu vực, văn học Đông Á, Đông nam Á.
Nếu đối lập "truyền thống" với "cách tân" thì thời kỳ
thứ nhất trong văn học dân tộc có thể gọi là "thời đại
văn học truyền thống" và hai thời kỳ cận, hiện đại tiếp
theo có thể gọi là "thời đại mới" trong văn học dân tộc"
(Bđd, tr. 36). Tôi thì chỉ nói vắn tắt :"Những khái niệm
Trung đại, Cận đại, Hiện đại dùng ở đây được xem
như là tương ứng với ba thời kỳ lớn trong lịch sử : thời
phong kiến, thời cách mạng tư sản, và thời cách mạng vô
sản" (Bđd, tr. 68). Về sau, cách gọi "thời Trung đại" đã
được nhiều người dùng, có người còn chủ động thay đổi
cách gọi cũ ("văn học Cổ"õ, "văn học Cổ điển"...) khi
sách hay giáo trình của họ được tái bản. Và gần đây,
Trần Đình Sử cũng thống nhất sử dụng "thời kỳ văn học
Trung đại" như một khái niệm mặc nhiên trong cuốn Mấy
vấn đề thi pháp văn học Trung đại.
Nhưng khoảng mấy năm lại đây, bản thân tôi lại tự thấy không yên tâm về thuật ngữ mà mình đã chọn. Bởi vì cái gọi là Trung đại là gì? Hoàn toàn không có gì khác ngoài cái hàm nghĩa đó là thời kỳ Trung cổ. Đó chỉ là dịch lại một cách vắn tắt thuật ngữ Période de Moyen Âge hay Période Médiéval trong lịch sử châu Âu. Song chuyển một thuật ngữ của lịch sử châu Âu sang lịch sử văn học Việt Nam và rộng hơn là lịch sử văn học phương Đông liệu có khiên cưỡng hay không khi ta biết hai phạm trù này không ăn nhập gì với nhau? Thời Trung cổ châu Âu là một thời kỳ chưa hình thành dân tộc, được đánh dấu bằng nền chính trị chia nhỏ thành các tiểu vương quốc và một xã hội nông nghiệp phân chia thành hai giai cấp quý tộc và nông dân. Đó là giai đoạn lịch sử "đêm trường", là sự thiếu vắng lý tính và khoa học, là sự ngự trị của Nhà thờ và lãnh chúa phong kiến, là "một nền văn minh, trong giới hạn gốc gác của nó, được nhào luyện kể từ những yếu tố mà đại đa số là có tính cổ điển và tính giecmanh hay là tính Cơ đốc giáo"(18) . Tôi chưa được đọc công trình Lịch sử văn học châu Âu của Dương Châu Hàn, Ngô Đạt Nguyên, Triệu La Nhuy viết năm 1964 (19) mà Gs. Trần Đình Sử đã viện dẫn để nói rằng họ đã mở rộng thời Trung đại đến tận thế kỷ XVII tức là khi chế độ phong kiến châu Âu đã thật sự suy tàn, nhưng trong các bộ sách tôi đã đọc như Encyclopédie Française 1973, Encyclopedia Universalis 1990-1995, và ngay cả Petit Larousse Ilustrée 1993, thì giới hạn thời Trung cổ vẫn chỉ là từ năm 476 khi đế quốc La-mã sụp đổ, cho đến khi Mahomet II (tức Mehmet II, 1429-1481), vua Thổ-nhĩ-kỳ đánh chiếm Constantinople vào năm 1453. Trung cổ hiểu theo nghĩa này chính là gói gọn trong thời kỳ độc tôn của Giáo hội Thiên chúa giáo chứ không phải bao quát toàn bộ lịch sử chế độ phong kiến. Về phương diện văn học, tiếp theo thời đại Trung cổ sẽ là thời đại Phục hưng ở nửa cuối thế kỷ XV, thời đại Baroque ở thế kỷ XVI-XVII, thời đại Cổ điển ở thế kỷ XVII, thời đại Tiền lãng mạn ở nửa đầu thế kỷ XVIII. Những thời đại này đều nằm trong lòng của chế độ phong kiến nhưng so với thời đại Trung cổ thì đã khác một trời một vực. Riêng ở Việt Nam cho đến nay, cách dùng khái niệm Trung đại vẫn là một ước lệ không có tính xác định về mặt nội hàm. Nói rằng tính chất "trung đại" bắt nguồn từ sự tỏa chiết của ý thức hệ Nho giáo đối với đời sống tư tưởng, tình cảm của toàn xã hội nhưng thật ra, trong 10 thế kỷ tồn tại của chế độ phong kiến tự chủ, đâu có phải thời nào Nho giáo cũng được suy tôn lên địa vị "giáo chủ" về mặt tinh thần. Là một nước nhỏ nằm trên đường trục giữa Trung Hoa và Ấn Độ, cơ chế sinh tồn của dân tộc chúng ta vẫn phải là sự dung hợp,cộng tồn của nhiều luồng tư tưởng. Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV, "tam giáo đồng nguyên" là cách ứng xử thích hợp nhất trtước thế động tất yếu của lịch sử. Đến thế kỷ XV, sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, nhất là sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi hoàng đế, Nho giáo cũng bắt đầu lên ngôi, giữ vị thế độc tôn, nhưng cũng chỉ độc tôn được dến hết thế kỷ XVII là rơi vào triền miên khủng hoảng. Từ đó đến khi chế độ phong kiến chấm dứt, các tập đoàn phong kiến nhiều lần cố vực lại kỷ cương bằng Nho giáo, sử dụng Tống Nho như một công cụ thống trị độc nhất về tư tưởng. Tuy nhiên, trong mạch ngầm của đời sống, các hệ tư tưởng phi Nho như Phật, Lão Trang, Đạo giáo, các tôn giáo tín ngưỡng bản địa, và các tôn giáo phương Tây mới du nhập... vẫn cứ có đất sống mạnh mẽ, nó làm nên một thứ khí hậu tinh thần pha trộn nhưng lại dễ thở, có tác dụng hóa giải sức ép độc đoán của Nho giáo từ bên trên. Như vậy, soi vào văn học, khi chúng ta mệnh danh cho cả 10 thế kỷ văn học cổ Việt Nam bằng mấy chữ thời Trung đại, phải chăng vô hình trung chúng ta đã đem một thuật ngữ châu Âu vốn mang hàm nghĩa rất hẹp - là một thời kỳ thiếu vắng những giá trị văn học đích thực - úp chụp lên cả một chặng đường rất dài với nhiều thành tựu rực rỡ của văn học chúng ta, trong đó chắc chắn đã có những tư trào phục hưng quan trọng - dĩ nhiên phục hưng hiểu theo nghĩa không máy móc nô lệ khái niệm thời đại Phục hưng phương Tây ở thế kỷ XV. Và điều này đã được nhắc đến trong cuốn sách của N. I. Niculin Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XIXnăm 1977 (20) . Ngẫm nghĩ lại tôi mới hiểu vì sao Nguyễn Lộc dùng khái niệm "thời kỳ văn học Truyền thống" và Trần Đình Hượu thì một mực gọi là "văn học Cổ điển" (nên nhớ, trước Trần Đình Hượu 20 năm, trong bộ sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam Thanh Lãng cũng đã sử dụng cụm từ "thời đại văn học Cổ điển" một cách có chủ kiến để gọi văn học Việt Nam từ thế kỷ XII đến giữa thế kỷ XIX) (21) . Và tôi cũng có linh cảm rằng Gs. Đặng Thai Mai đã có lý khi gọi tên bộ phận nghiên cứu của Viện Văn học mà hiện tôi đang phụ trách là "văn học Cổ Cận đại", kể từ 1959. Mấy chữ "văn học Truyền thống", "văn học Cổ điển", "văn học Cổ" hay "văn học Cổ Cận đại" không cho ta cái ám ảnh trung cổ như cách gọi văn học Trung đại. Gần đây, cũng nhân đọc hai bộ sách Trung Hoa văn học thông sưû, và Trung Quốc văn học sử, tôi bỗng bỡ ngỡ khi các nhà văn học sử Trung Quốc vẫn "cố thủ" ở hai chữ Cổ đại mà họ dùng từ rất xưa, dành cho quãng đường văn học rất dài từ Tiên Tần đến 1840 hoặc đến tận 1919. Khái niệm "cổ đại" mà họ dùng bao gồm từ xã hội nguyên thủy, xã hội nô lệ, cho đến xã hội phong kiến (hoặc có đổi mới thuật ngữ chút ít là Thượng cổ, Trung cổ và Cận cổ), nhưng về mặt nội dung, lại không phải là một thời kỳ "vô hồn", trái lại, đây là "bộ phận tổ thành trọng yếu trong di sản văn hóa [Trung Quốc], có thể nói là một báu vật đáng tự hào nhất của văn minh Trung Hoa. Bởi vì, thông qua văn học Cổ đại, chúng ta không những có thể trải nghiệm những bước biến đổi thịnh suy hưng vong của nước cổ 5.000 năm, có thể sờ mó, tiếp xúc với cái linh hồn phong phú mà sâu thẳm của cả một dân tộc vĩ đại, mà hơn nữa, đứng về góc độ hưởng thụ tinh thần và thưởng thức nghệ thuật mà nói thì còn giống như được đi vào một tòa cung điện mỹ lệ xây nên bằng ngôn ngữ văn tự, được dạo qua một vùng kỳ hoa dị thảo, đâu đâu cũng là vườn tược mênh mông um tùm quanh quất, từ đấy mà cảm nhận được cái nguy nga cao tột của nó, lại cũng hiểu dược sự rạng rỡ hưng thịnh và vẻ đẹp nuột nà của nó" (22) . Cái nghĩa "cổ đại" mà các học giả Trung Quốc hiện nay dùng cho thời kỳ văn học cổ của họ, chưa bao giờ có ý vị ảm đạm như cách gọi văn học Trung cổ trong văn học châu Âu. |
2.
Với một khoảng cách lịch sử kéo dài đến mười thế kỷ,
việc phân chia các giai đoạn cụ thể cho Thời
kỳ văn học Cổ Việt Nam cũng là vấn đề cần
bàn. Không trở lại với những bộ văn học sử trước 1945
phân chia theo triều đại mà nhiều người đã biết, chỉ
lược điểm một số công trình tiêu biểu từ sau 1954 cho
đến gần đây, chúng ta có thể thấy, cách chọn những cái
mốc cho từng thời đoạn giữa các nhà nghiên cứu còn khá
xa nhau.
Bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt nam của Nhóm Lê Quý Đôn (1957) (23) chọn mấy mốc sau : -Văn học thế kỷ XIII - thế kỷ XVTừ giữa thế kỷ XIX về sau Nhóm này xếp vào thời kỳ văn học Cận đại. Bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của Nhóm Văn sử địa (1957 - 1960) (24) lại có cách chọn hơi khác : -Văn học trước thế kỷ XV (cụ thể là từ đầu thời tự chủ đến hết thế kỷ XIV)Bộ sách chỉ mới dừng lại ở đó. Các tập giáo trình của hai trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội được chỉnh lý và bổ sung nhiều lần, cho đến lần cuối cùng vào các năm 1976-1979 (25) và 1988-1989 (26) thì cách chia của hai bên đã tương đối thống nhất : -Văn học thế kỷ X - thế kỷ XIVĐiều dễ nhận ra là tuy có xê dịch trong việc định mốc, cả bốn bộ sách vừa dẫn đều trùng hợp nhau ở một điểm : không một nhóm tác giả nào lựa chọn một niên đại dứt khoát làm giới hạn phân kỳ mà đều lược quy các tiến trình văn học sử vào những khoảng cách một vài ba thế kỷ, và sự phân cắt giữa các tiến trình ấy nói chung vẫn mang tính chất áng chừng, mặc dầu ở phần tổng luận, tiêu chí phân kỳ đều đã được họ giới thuyết cặn kẽ. Phải chăng điều đó cũng góp phần xác nhận sự khó khăn nan giải trong việc vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, nói cách khác, con đường quay về với những quy ước có sẵn nhiều khi lại giúp ta có cách xử lý uyển chuyển đối với các chặng đường cục bộ của lịch sử văn học mà nhận thức cho được sự khu biệt rành mạch không phải không có khó khăn. Trở lại với Thanh Lãng. Trong sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam, sau khi đề ra một lý thuyết phân kỳ tương đối linh hoạt, ông bèn ứng dụng nó để chia lịch sử văn học Viêït Nam thành hai thời đại làthời đại Cổ điển (thế kỷ XII đến 1862), và thời đại Mới (1862-1945). Rồi trong mỗi thời đại, ông lại chủ trương "cắt lát" thành nhiềuthế hệ văn họctiếp nối nhau . Chẳng hạn, trong "thời
đại Cổ điển" có đến bảy thế hệ :
Trong "thời đại văn
học Mới" (tính đến 1945) cũng có ba thế hệ :
Cố gắng đi đến một sự phân cắt tỷ mỷ như thế phải nói là một dụng công hiếm có, tiếc rằng chỗ đáng quan tâm là xác định nội dung của khái niệm "thế hệ văn học " sao cho ổn đáng thì Thanh Lãng lại tỏ ra lúng túng. Ông định nghĩa "thế hệ văn học" là "một thời kỳ văn học ngăn ngắn nào đó, được khai mạc từ một năm nào đó, do một biến cố nào đó, khiến cho từ năm ấy và do biến cố ấy, văn học của thời này, một đằng khác với văn học của thời kỳ đi trước, một đằng lại có cái gì là chung chung, là giông giống nhau cho phần đông các cuộc đời văn học cùng lứa tuổi, cùng thời kỳ này, rồi cái thời kỳ ngăn ngắn sẽ lại bị bế mạc từ một năm nào đó, do một biến cố nào đó, khiến cho từ đấy về sau văn học lại đổi theo chiều hướng khác" (27) . Nhưng cái gì là tín hiệu có giá trị thông báo chỗï chia tách giữa thế hệ này và thế hệ kia, cũng như cái gọi là "chung chung", "giông giống nhau" trong cùng một thế hệ là gì? Cách diễn đạt "mang máng" không cho phép ta nắm bắt ý tưởng tác giả thật tường tận. Đó hẳn cũng là chỗ khó khăn, lúng túng của người viết trong xử lý thực tiễn. Một nữ học giả Mỹ mới đây là Helen Vendler có cho biết : việc đi tìm những yếu tố tương đồng giữa các hiện tượng văn học trong cùng một thời đại để làm tiêu chuẩn phân kỳ là rất khó, so với nó, việc soi tỏ tính chất tương phản giữa một thời đại này và một thời đại trước hay sau nó còn dễ dàng và thiết thực hơn (28) . Đối chiếu với bảng phân định các "thế hệ văn học" của Thanh Lãng, chỗ khiến ta chưa đồng tình là ông cứ "phân" mà chẳng "định", nghĩa là không những chưa quan tâm hội đủ nét riêng thực có của mỗi thế hệ (như tên gọi ông dành cho họ), mà cũng chưa chú ý soi tỏ điểm khu biệt mấu chốt giữa các thế hệ này. Ví như, nói văn học từ thế kỷ XII (sao lại bắt đầu từ thế kỷ XII mà không sớm hơn?) đến hết thế kỷ XIV là thuộc "thế hệ đối kháng Trung Hoa" thì đối kháng Trung Hoa ở đây hiểu là nội dung tư tưởng hay hình thức nghệ thuật? Nếu là nội dung tư tưởng, hẳn văn học giai đoạn sau đó (thế kỷ XV) cũng vẫn cứ tiếp tục tinh thần đối kháng ấy chứ đâu có gì khác? Còn nếu thuộc hình thức nghệ thuật thì suốt cả giai đoạn Lý-Trần, văn học Việt Nam hầu hết đều viết bằng chữ Hán và đều đang vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc sao cho tinh luyện, nào có hề "đối kháng" gì đâu! Lại chẳng hạn, nói văn học giai đoạn 1592 - 1728 là "thế hệ văn học gặp gỡ Tây phương" có lẽ cũng đúng một phần, nhưng "gặp gỡ Tây phương" chỉ là một thiểu số rất ít ỏi chứ đâu phải cả thế hệ, vì ngoài việc Alexandre de Rhodes (1591-1660) sáng tác ra chữ quốc ngữ dùng trong việc giảng đạo, chuẩn bị cho bốn thế kỷ sau sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong chữ viết dân tộc, và ngoài một vài tác phẩm giới hạn hết sức hẹp trong sinh hoạt của Giáo đoàn Thiên chúa giáo như tập Sấm truyền ca diễn ca Kinh Thánhcủa Louis Đoan, bằng chữ Nôm theo thể lục bát (1670), sau khi ra đời ít lâu liền bị mai một, vì bị các Cha cố người Pháp không thừa nhận, mãi đến khoảng 1816-1820 mới được Phan Văn Cận phiên âm ra quốc ngữ, và đến nay cũng vẫn chỉ lưu hành dưới dạng những bản chép tay đã sứt mẻ; hay tập Truyện các Thánh,1672 trang,bằng văn xuôi chữ Nôm, mang danh nghĩa là tác phẩm của Maiorica (1591-1656), nhưng theo Gs. Nguyễn Văn Trung, thực tế có lẽ là do nhiều Giáo sĩ người Việt sáng tác trong thế kỷ XVII (và được mang luôn sang châu Âu ngay sau khi ra mắt, nghĩa là hoàn toàn thất truyền ở Việt Nam) (29) , thì phần sáng tác phổ biến trong công chúng bạn đọc rộng rãi của văn học Việt Nam giai đoạn này vẫn tuyệt nhiên chưa có sự tiếp xúc với Tây phương ở bất kỳ một biểu hiện trực tiếp hay gián tiếp nào. Một bên là hàng loạt sáng tác đã có một đời sống thực sự trong thời đại của mình và một bên là vài ba tác phẩm sớm bị tách khỏi môi trường bạn đọc của chúng, nên lấy bên nào làm tiếng nói đại diện mới hợp lý? Tưởng bộ môn tiếp nhận văn học đã cho ta lời giải đáp sáng tỏ. |
Bàn về việc phân định
các chặng mốc của thời kỳ văn học Cổ Việt Nam còn phải
chú ý đến ý kiến của Trần Đình Hượu trong một bài viết
năm 1984 (đã dẫn), khi ông nêu lên những băn khoăn sau đây
: "Còn có những vấn đề chưa thật rõ : 1. Có hay không một
giai đoạn văn học Thiền? 2. YÙ nghĩa của các áng danh văn
lịch sử như thơ Lý Thường Kiệt, hịch Trần Quốc Tuấn,
Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi? 3. Thực tế văn học
của những thời gian gặp chiến tranh lâu dài : 30 năm chống
Nguyên Mông, 20 năm chống Minh, một thế kỷ rưỡi nội chiến
Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn"(tr. 522) (30)
. Theo chúng tôi hiểu, Trần Đình Hượu muốn làm rõ những
vấn đề trên để xác định thật đúng mối liên quan giữa
văn học và lịch sử, cũng tức là xem xem các biến cố phi
văn học có tác động đến chừng mực nào trong việc thay
đổi bản sắc của một chặng đường văn học hay tạo ra
một dòng văn học mới, trên tiến trình dài lâu của văn
học cổ chúng ta.
Giai đoạn đầu tiên dễ được nhiều người thống nhất, là văn học từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV, mà cụ thể là từ năm 938 (Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán mở đầu thời kỳ tự chủ - vào năm này, nhà thơ đóng vai trò khai sáng của nền văn học viết dân tộc Đỗ Pháp Thuận đã 23 tuổi) đến 1413 (chính thức kết thúc thời đại Hậu Trần - cũng là năm Đặng Dung sáng tác bài Cảm hoài và nhảy xuống sông tự vẫn). Tính thống nhất của cả giai đoạn được biểu hiện ở chỗ, về mặt nội dung, nó mang dấu ấn rõ rệt của tinh thần dung hợp Phật, Nho và Đạo; điều đó chi phối cảm hứng sáng tạo của người cầm bút, tạo nên linh hồn và chiều sâu thẩm mỹ của mọi tác phẩm. Cái vẻ đẹp phóng khoáng trong văn học giai đoạn này bắt nguồn từ đó, và đó cũng là nhân tố sâu xa giúp cho văn học có được bản lĩnh "giải Trung Quốc hóa", phô bày không chút mặc cảm bản sắc riêng, cởi mở, bình dị màø không kém tinh tế, trong mọi khía cạnh tình cảm, cảm xúc của con người Việt Nam. Về hình thức nghệ thuật, đây cũng là giai đoạn mà văn học dân tộc chính thức vận dụng hệ thống thể loại của văn học Trung Quốc để xây dựng hoàn thiện hệ thống thể loại văn học chữ Hán - dòng chủ lưu trong suốt các giai đoạn đầu của văn học nước ta. Giai đoạn thứ hai của văn học Cổ dân tộc, theo chúng tôi, có thể quy gọn vào thế kỷ XV mà cụ thể là từ 1413 (thời Nguyễn Trãi bôn ba tìm đường cứu nước) đến 1497 (năm mất của Lê Thánh Tông). Đây là giai đoạn văn học xây dựng con người điển hình theo mẫu mực Nho giáo, rút tỉa từ Nho giáo lý tưởng "nhân nghĩa" làm nền tảng phục hưng dân tộc sau hai mươi năm bị giặc Minh đô hộ. Đây cũng là giai đoạn vật lộn và sinh thành của dòng văn học quốc ngữ, mà thể nghiệm quan trọng trong suốt thế kỷ là thể thơ Nôm lục ngôn. Nguyễn Lộc cho rằng phải xếp nửa đầu thế kỷ XV vào giai đoạn thứ nhất, nhưng thực ra, về nhiều mặt, văn học nửa đầu thế kỷ này vẫn có phần gần gũi với văn học nửa cuối thế kỷ nhiều hơn. Một gương mặt lớn như Nguyễn Trãi (1380-1442), dẫu trong thơ vẫn giữ dược cái thích thảng của hồn thơ Lý-Trần, tuy vậy, niềm thao thức "quân thân" là đặc trưng tiếng nói của thơ ông thì lại là ảnh xạ của lý tưởng "vua sáng tôi hiền" mà chỉ đến thơ văn thế kỷ XV mới có. Cho nên, về nội dung cũng như hình thức, khó có thể cắt đôi văn học thế kỷ XV thành hai nửa. Bản thân nó có lý do tồn tại như một thực thể đặc định. Nếu thế kỷ XV đứng riêng thành một giai đoạn thì hai thế kỷ XVI-XVII có thể xem là giai đoạn thứ ba. Đặc điểm của giai đoạn văn học này là gì ? Về cả nội dung và hình thức, đây là giai đoạn vừa tiếp nối văn học thế kỷ XV nhưng lại cũng vừa có bước phát triển mới. Nếu tiếng nói bao trùm văn học thế kỷ XV là cảm hứng dân tộc biểu hiện ở mối quan hệ giữa nhà nước với dân, và sự gắn bó giữa tình cảm "công dân" với vẻ đẹp của non sông gấm vóc, giữa trách nhiệm của kẻ "chăn dân" với cuộc sống yên ả thanh bình đang diễn ra trên mọi miền đất nước, thì văn học thế kỷ XVI-XVII lại muốn nhấn mạnh cảm hứng này về phương diện lịch sử, nhìn vận mệnh dài lâu của đất nước qua lịch sử của các triều đại, đồng thời nâng quan hệ dân-nước lên tầm khái quát qua việc đúc kết những mệnh đề chung nhất về đạo lý làm người. Thơ Nôm lục ngôn vẫn được tiếp tục với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng bên cạnh đó cũng đã xuất hiện một vài thể loại mới là truyện văn xuôi kỳ ảo (như Truyền kỳ mạn lục,Thiên Nam vân lục (Hán) và Truyện các Thánh (Nôm)), và đặc biệt là hình thức diễn ca lịch sử (kể cả Sấm truyền ca, diễn ca Kinh thánh, cũng là diễn ca lịch sử Thiên chúa giáo phương Tây). Đây là hình thức kể chuyện lịch sử bằng thơ, nhưng có những tác phẩm rất dài hơi như Thiên Nam ngữ lục, với nhiều tình tiết hư cấu lý thú, văn chương nôm na sống động, chắc chắn đã đóng vai trò quan trọng của thể truyện trong đông đảo công chúng bạn đọc thuở bấy giờ. Bước đột khởi quan trọng của văn học Cổ Việt Nam sẽ được đánh dấu ở giai đoạn thứ tư mà theo chúng tôi, có thể đóng khung trong thế kỷ XVIII : giai đoạn xung đột gay gắt giữa hai luồng tư tưởng "ngu trung" và "cấp tiến", giai đoạn "thác loạn" của kiểu người "gia phong nền nếp" cũ, cũng tức là giai đoạn chiến thắng rực rỡ của chủ nghĩa nhân văn. Nguyễn Lộc cho rằng giai đoạn này phải bắt đầu từ giữa thế kỷ XVIII (ý kiến của Nguyễn Lộc cũng đại biểu cho hai nhóm tác giả hai tập giáo trình Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội), nhưng đúng như Trần Đình Sử đã nhận xét, ngay từ đầu thế kỷ, trào lưu nhân văn đã được khơi dậy với Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm và với Song Tinh-Bất Daï của Nguyễn Hữu Hào (? - 1713) (31) . Hai hiện tượng văn học quan trọng như thế chẳng phải đã đủ xác nhận sự thống nhất trọn vẹn về xu thế nội tại giữa văn học nửa đầu thế kỷ XVIII với văn học nửa sau thế kỷ là gì. Vì thế, khởi điểm của giai đoạn này phải tính từ 1700, năm Song Tinh-Bất Dạ ra mắt (32) . Còn như giai đoạn văn học này chấm dứt vào lúc nào, tưởng cũng cần cân nhắc cho hết lẽ. Đúng là văn học nửa đầu thế kỷ XIX có khá nhiều phương diện vẫn là sự tiếp nối của văn học thế kỷ XVIII (chúng tôi đã bàn đến tính liên tục và tiệm tiến của sự phát triển của văn học so với lịch sử, đây là một minh chứng), nhưng về sắc thái, văn học nửa đầu thế kỷ XIX so với trước đã có nhiều nét khu biệt. Âm hưởng chính của chủ nghĩa nhân văn ở thế kỷ XVIII là chống chiến tranh và cực tả thân phận người phụ nữ - hóa thân của mọi đau khổ cùng cực trong cuộc đời dâu bể suốt thế kỷ này. Đi liền với nội dung ấy là hình thức ngâm, vãn, một thể loại có ưu thế trong việc biểu đạt tiếng khóc vò xé bên trong, sự dồn nén cao độ của những sắc thái, cung bậïc của cảm hứng trữ tìnhï. Văn học thế kỷ XVIII kết thúc cùng với sự khép lại của cả một xu hướng phơi trải lòng mình triền miên không dứt, kéo dài từ Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, đến Nguyễn Gia Thiều, Công chúa Ngọc Hân... để nhường chỗ cho những đòi hỏi mới của chủ nghĩa nhân văn ở nửa đầu thế kỷ XIX : một mặt phải tổng kết vấn đề số phận con người trong những tác phẩm có quy mô tự sự lớn (thể truyện xuất hiện hoàn chỉnh và đạt đến những kiệt tác như Truyện Kiều), hoặc phát hiện thêm các khía cạnh nhức nhối về tấn thảm kịch con người "dưới đáy", con người bị đẩy tới bần cùng hóa, trong những thể ca, hành dài hơi bằng chữ Hán (thơ chữ Hán Nguyễn Du, Cao Bá Quát, nhất là Miên Thẩm...), mặt khác phải nói lên khát vọng cá nhân trong nhu cầu phơi bày các khía cạnh mới của cái "tôi", khi điều kiện lịch sử đã đem đến cho nó một nguồn kích thích mới, với những nội lực mạnh mẽ hơn trước : nhu cầu thỏa mãn chí nam nhi, nhu cầu hành lạc - "chơi cho phỉ chí tang bồng" -, nhu cầu trào tiếu, nhu cầu tính dục, nhu cầu hướng nội, nhu cầu vò xé, trải nghiệm với chữ tình (thể loại thơ nôm Đường luật và thể loại hát nói đáp ứng tích cực những nhu cầu mới mẻ và đa dạng này). Như thế, văn học nửa đầu thế kỷ XIX là một giai đoạn mới, giai đoạn thứ nămcủa thời kỳ văn học Cổ Việt nam mà ta có thể xác định mốc khởi đầu là 1802, với những sự kiện xẩy ra sát trước hay sau nó : bút chiến giữa Phạm Thái và Nguyễn Huy Lượng xung quanh Phú tụng Tây hồ (1801), Nguyễn Ánh thống nhất nhất đất nước (1802), tác phẩm Sơ kính tân trang ra đời (1803), và Nguyễn Thiếp mất (1804). Giữa thế kỷ XIX, với tiếng súng của thực dân Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng (1858), cùng với việc Nguyễn Công Trứ từ trần (1858), văn học Việt Nam lại chuyển sang một giai đoạn khác. Đây là giai đoạn thứ sáu, giai đoạn cuối cùng của thời kỳ văn học Cổ Việt Nam . Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là tính chất giao thời, thông qua sự hiện diện đan cài của những nhân tố mới và cũ trong văn học : a. Dòng văn học yêu nước truyền thống với hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân được khẳng định và hình ảnh người sĩ phu trung nghĩa vụt sáng lên trong chốc lát nhưng cũng là từng bước tự phủ định, cho đến khi mất hẳn vai trò lịch sử; b. Dòng văn học trào phúng hiện thực với hai cây bút cự phách Nguyễn Khuyến và Tú Xương khơi sâu vào hai mảng sống hết sức mới mẻ là nông thôn và đô thị, trong đó bắt đầu hằn rõ những mâu thuẫn nhức nhối của xã hội thuộc địa nửa phong kiến, đi liền với sự tha hóa cùng cực của cái hình ảnh điển hình cho cả một thời đại : mẫu người nhà nho; c. Dòng văn học tuồng với vai trò nhà nghệ sĩ Đào Tấn, làm nẩy sinh một hình thức sống động của sinh hoạt văn học cung đình, khai thác các mâu thuẫn giàu kịch tính của những đề tài muôn thuở về cuộc đấu tranh bi tráng giữa chính-tà, trung-nịnh, chính thống-phi chính thống, nhưng trong tiềm thức hình như cũng là một cách nghiêm khắc duyệt lại các giá trị của Nho giáo trước vấn nạn ghê gớm của lịch sử ; d. Dòng văn học quốc ngữ với sự ra đời của một vài tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Nam Kỳ, với hàng chục tập truyện tôn giáo theo thể vè và thể tuồng(33) , với những truyện kể "như lời nói thường" của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản... báo hiệu một xu thế đổi thay trong hình thức ngôn ngữ dẫn đến sự đổi thay trong tư duy nghệ thuật, tuy mới manh nha song không thể cưỡng. Dẫu sao, tiếng nói bao trùm văn học nửa cuối thế kỷ XIX vẫn là âm vang còn lại của những giá trị tinh thần đã kết tinh từ nhiều thế kỷ. Hình ảnh mẫu mực của cái đẹp tuy có bị phủ định gay gắt nhưng tựu trung, các nhà văn vẫn phải thông qua lăng kính thẩm mỹ vốn đã được đúc thành khuôn trong văn học cổ để làm thước đo của mọi cách nhìn. Ngay cả dòng văn học quốc ngữ, sau một vài tác phẩm đầy hứa hẹn như Chuyện thầy Lazaro Phiền (1887), cũng đã có một chặng lùi tương đối : phải im hơi lặng tiếng đến ngót 15 năm mới tiếp tục khởi sắc trở lại. Bởi thế, văn học nửa cuối thế kỷ XIX chưa thể là giai đoạn mở đầu của một thời kỳ văn học mới, mà thực tế chỉ là khúc "vĩ thanh" của một màn kịch dài sắp kết liễu : nó là giai đoạn bộc lộ hết tinh hoa cũng như chỗ bất cập của những nguyên tắc thẩm mỹ một thời vang bóng của thời đại văn học Coå Việt Nam. Đó là chỗ khác nhau giữa ý kiến Nhóm Lược thảo, ý kiến Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ (34) , và của chúng tôi.
|
|
(1). Xem bài Vấn đề phân kỳ văn học sử Việt Nam. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 59-75. (2). Bài trên được sửa lại và in trong cuốn Các vấn đề của khoa học văn học. Trương Đăng Dung chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990. Tr. 372-398. (3). Xem bài Đổi mới nhận thức lịch sử trong khoa học xã hội và trong nghiên cứu văn học. Tạp chí văn học, số 6-1990. (4). Xem bài Vấn đề phân kỳ trong lịch sử văn học dân tộc và quy luật vận động củá văn học dân tộc. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 25-40. (5). Xem bài Vấn đề chọn mấy năm mốc trong việc phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 41-51. (6). Xem bài Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr. 52-58. (7). Xem Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999. (8). Klanixoi Tiborơ. Về khái niệm thời kỳ văn học. Sđd, tr. 399-408. (9). Thanh Lãng. Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Tập thượng, Nxb. Trình bày, Sài Gòn, 1967. Phần mở đầu, tr. XXXXI-XXXXII. (10). Như trên, tr. XXXXII-XXXXIII. (11). Trung Hoa văn học thông sưû, 10 quyển. Trương Quýnh, Đặng Thiệu Cơ, Phàn Tuấn chủ biên. Hoa nghệ xuất bản xã, Bắc Kinh, 1997. Sách này viết đến tận cuối thế kỷ XX nhưng chúng tôi chỉ chọn 4 quyển đầu, tức thời kỳ thứ nhất (Cổ đại) trong bảng phân kỳ của họ. (12). Xem Trung Quốc văn học sưû, 4 quyển. Nxb. Cao đẳng giáo dục, Bắc Kinh, 1999. Sách này chỉ viết từ thời Thượng cổ dến năm 1919. Phần "Tổng tự" của Viên Hành Bái, Q. I, tr. 12 và 18. (13). Lanson. Histoire de la littérature française (in lần đầu 1894), remaniée et complétée pour lapériode 1850-1950 par Paul Tuffaut. Nhà sách Hachette, Paris, 1951. Trong sách này, Lanson và Paul Tuffaut đã chia lịch sử văn học Pháp thành bảy thời kỳ :1. Thời kỳ Trung cổ; 2. Thời kỳ từ sau Trung cổ đến hết Phục hưng; 3. Thế kỷ XVI; 4. Thế kỷ XVII; 5. Thế kỷ XVIII; 6. Thế kỷ XIX; 7. Thời kỳ Hiện đại (1919-1950). (14). M. H. Abrams. A Glossary of Literary Terms. Nxb. Harcourt Brace College, Fort Worth, Philadelphia, San Diego, New York, Orlando, Austin, San Antonio, Toronto, Montreal, London, Sydney, Tokyo, tr.210. Các dẫn liệu trong cuốn sách này và trong cuốn Thử thách của vấn đề phân kyø của Lawrence Besserman (chú thích 28) đều do ông Nguyễn Nam, Trường đại học Harvard, chỉ giúp. Xin ghi nhận ở đây lòng biết ơn của chúng tôi. (15). M. H. Abrams. Sđd, tr. 205. Nguyên văn : "suggests that there is an order in American political history more visible and compelling than that indicated by specifically literary or intellectual categories". (16). Như trên, tr. 205. (17). Xem bài Xác định cái dân tộc, cái cổ điển làm cơ sở để phân kỳ văn học dân tộc (1984). In trong Nho giáo và văn học Việt nam Trung cận đại. Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995, tr. 500-523. (18). Xem mục "Le monde médiéval" trong sách Encyclopedia Universalis, CD-Rom PC. Nguyên văn : "Dans le cadre original, une civilisation s'est élaborée à partir d'éléments dont la plupart étaient classiques, germaniques ou chrétiens". Sau đây là hai đoạn trích nói về uy thế của đạo Cơ đốc và của Tòa thánh La-mã trong suốt thời Trung cổ : "Để thực hiện sự thống nhất về tinh thần, phải gieo rắc tín ngưỡng, đón trước những sự bất đồng, và nuôi sống nó bằng những giáo đồ của nó. Nhiệm vụ thứ nhất là việc truyền bá Phúc âm, sánh vai cùng sự bành trướng của phương Tây. Khi thì những tông đồ nối gót những người lính, những viên chức và những nhà buôn, và họ vinh danh hành động của họ; khi thì họ khai thông con đường của họ. Họ chinh phục trước tiên là phía Bắc xứ Francie, nước Airơlen, nước Anh, nước Đức. Dưới triều Carôlinhgiêng, họ buộc các xứ Saxe, Moravie, Carinthie slovène quy theo đạo. Đến thế kỷ X, họ thâm nhập vùng Scandinavie, cắm chốt ở Bohême, chiến thắng người Hung và với tay tới Ba-lan. Với phong trào Drang nach Osten [ phong trào "Tiến về phương Đông" của phong kiến Đức ở thế kỷ XII], họ mang Phúc âm vào Phầân-lan, vào những vùng nói tiếng Slave ở Poméranie và Prusse. Nhưng những vùng nói tiếng Slave ở Serbie, Bun-ga-ri và Nga thì thoát khỏi bàn tay La-mã. Giữa những năm 860 và 871, họ tiếp nhận những nhà truyền giáo của xứ Byzance. Khi sự ly giáo nổ ra, họ ở lại trong phạm vi ảnh hưởng của xứ này. Thầy tu nối vào chính trị để cắt Đông Âu ra khỏi phương Tây" (Pour réaliser l'unité spirituelle, il fallait répandre une croyance, y prévenir les dissensions et la faire vivre par ses adeptes. La première tâche, l'évangélisation, alla de pair avec l'expansion de l' Occident. Tantôt les apôtres suivirent les soldats, les fonctionnaires et les marchands et couronnèrent leur action, tantôt ils leur frayèrent la route. Ils conquirent d'abord la Francie septentrionale, l'Irlande, l'Angleterre, l'Allemagne. Sous les Carolingiens, ils convertirent la Frise, la Saxe, la Moravie, la Carinthie slovène. Au Xe siècle, ils pénétrèrent en Scandinavie, s'ancrèrent en Bohême, triomphèrent chez les Hongrois et atteignirent la Pologne. Avec le Drang nach Osten, ils portèrent l'Evangile en Finlande, dans les pays baltes et aux Slaves de Poméranie et de Prusse. Mais ceux de Serbie, Bulgarie et Russie échapèrent à Rome. Entre 860 et 871, ils avaient accueilli des missionnaires de Byzance. Quand le schisme éclarta, ils restèrent dans la sphère d'influence de celle-ci. Le religieux rejoignit le politique pour couper l'Europe orientale de l'Occident). "Với tham vọng về sự độc lập của vị Giáo trưởng Constantinople, nó trả lời bằng cách khẳng định không khoan nhượng quyền lực vạn năng của La-mã. Để sắp đặt thế giới theo kế hoạch của Chúa trời, nó công bố sự ưu thế của trật tự tinh thần đối với trật tự chính trị, và vậy là ưu thế của Giáo hoàng đối với Hoàng đế. Nó chỉ thực hiện đầy đủ điểm thứ hai của chương trình này, chính là cái điểm mà chúng ta quan tâm ở đây. Như vậy nó cắt La-mã khỏi các thánh đường phương Đông, nhưng nó cũng làm cho La-mã của phương Tây trở thành một chế độ quân chủ thực sự. mà người thủ lĩnh, vị Giáo chủ, chính là quốc vương, trong tất cả sức mạnh của từ ngữ, và những Bộ trưởng, Hồng y, đều được tuyển lựa trong tất cả các nước la-tinh theo dạo Cơ đốc, còn những vị Toàn quyền, những Công sứ tòa thánh, thì luôn luôn đi khắp các nước ấy.Trật tự tôn giáo đã tác động trong cùng một nghĩa. Những tu viện cấp cao, ngay từ đầu thời Trung cổ, đã chiếm một chỗ rất lớn ở phương Tây. Cho đến thế kỷ X, những tu viện ấy dã trở thành độc lập, không còn phụ thuộc lẫn nhau. Với dòng Cluny ở thế kỷ X, chúng thường có thói quen tập hợp lại xung quanh một quy chế, và xung quanh một vị thủ lĩnh độc nhất hoặc một Hội đồng công cộng, một "tổng tập đoàn thầy tu", để giải thích và làm cho quy chế được áp dụng. Số đông những trật tự sinh ra theo cách ấy đã giành được quyền "miễn trừ" đối với uy quyền của Giám mục địa phận, để chỉ còn phụ thuộc vào Giáo hoàng, và chúng phân tán ra trong tất cả các nước phương Tây. Như vậy chúng tăng cường sự thống nhất xung quanh La-mã" (Aux prétentions du patriarche de Constantinople à l'indépendance, il répondit par l'affirmation intransigeante du pouvoir universel de Rome. Pour ordonner le monde selon le plan de Dieu, il proclama la supériorité de l'ordre moral sur l'ordre politique, et donc du pape sur l'empereur. Il ne réalisa pleinement que le second point de ce programme, celui qui nous intéresse précisément ici. Il coupa ainsi Rome des Églises d'Orient, mais il fit de celle d'Occident une authentique monarchie, dont le chef, le pontif, était, dans toute la force du terme, souverain, dont les ministres, les cardinaux, se recrutaient dans toute la chrétienté latine, dont les plénipotentiaires, les égats, parcouraient constament celle-ci. Les ordres religieux agirent dans le même sens. Les abbayes avaient, dès le début du Moyen Âge, tenu en Occident une très grande place. Jusqu'au Xe siècle elles avaient été indépendantes les unes des autres. Avec Cluny au Xe siècle, elle prirent la coutume de se grouper autour d'une règle et, pour interpréter et faire appliquer celle-ci, d'un chef unique ou d'une assemblée commune, d'un "chapitre général". La plupart des ordres nés de la sorte obtinrent d'être "exempts" de l'autorité de l'ordinaire pour ne relever que du pape et ils essaimèrent dans tout l'Occident. Ils renforcèrent ainsi l'unité disciplinaire autour de Rome). (19). Nxb. Thương vụ , Bắc Kinh, 1964, tr. 76. Chuyển dẫn theo Trần Đình Sử, Sđd, tr. 46. (20). Văn học Việt Nam từ các thế kỷ Trung đại đến Cận đại. Nxb. Khoa học, Matxcơva, 1977. Chuyển dẫn theo Trần Đình Sử, Sđd, tr. 55. (21). Theo tác giả, thời đại văn học Cổ điển được quy định bởi những đặc điểm sau : a. Trong việc lựa chọn nhân vật, ở bộ phận văn học cao cấp, thượng lưu, nhân vật và môi trường sinh hoạt của nhân vật thường mang tính chất điển nhã, cao quý, trái lại, ở bộ phận văn học dân gian thì lại mang tính chất tăm tối, nghèo nàn; b. Bút pháp chung của văn học Cổ điển là tượng trưng, ước lệ (trừ bộ phận văn học dân gian có thể không tuân thủ triệt để các nguyên tắc sáng tác này), được nâng lên thành những mẫu mực lý tưởng, những công thức cố định cho văn học mọi đời noi theo; c. Phi ngã là đặc tính chung của văn học Cổ điển, cái tôi của tác giả ít khi được bộc lộ trong sáng tác, nhưng trong văn học dân gian, cái tôi vẫn có thể biểu lộ một cách dễ dãi; d. Quan niệm cái đẹp của văn học Cổ điển là cái gì hợp với nghi lễ, trật tự trong vũ trụ, vì thế, mọi nghệ thuật đều phải có tính chất đối xứng, hoàn chỉnh, lời văn của văn học Cổ điển thường là biền ngẫu, bảo đảm sự cân đối, nhịp nhàng. Sđd, Tập thượng, tr.7-9. (22). Đặng Thiệu Cơ. "Tự luận". Sđd, Quyển I, tr. 2. (23). Ba tập. Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1957. (24). Năm quyển. Nxb. Văn sử địa và Nxb. Sử học, Hà Nội, 1957-1960. (25). Nhiều tập. Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. (26). Nhiều tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. (27). Thanh Lãng. Văn học Việt Nam, Tập I : "Đối kháng Trung Hoa". Phong trào văn hóa, Sài Gòn, in lần thứ hai, 1971. Những kiến giải về "phương pháp thế hệ" được trtình bày ở các trang 43-52. (28). Helen Vendler. Periodizing Modern American Poetry (Phân kỳ thi ca Mỹ hiện đại), trong sách The Challenge of Periodization Old Paradigms and New Perspectives (Thử thách của vấn đề phân kỳ - Các cấu hình cũ và những viễn cảnh mới). Lawrence Besserman chủ biên. Nxb. Garland, New York và London, 1996, tr. 242-243. (29). Xem Nguyễn Văn Trung. Đạo Chúa ở ViệtNam. Nam Sơn xuất bản, Montréal, Quebec, 2000. Thực ra ngoài bìa đề như vậy nhưng bên trong là tài liệu đánh vi tính thuộc "tủ sách sử liệu Việt Nam" mà tác giả cho phép các thư viện trong và ngoài nước được sao chụp để tham khảo. Bản chúng tôi dùng là của ông Nguyễn Bá Chung. Xin được cảm ơn người soạn sách cũng như người giữ sách. (30). Trần Đình Hượu. Nho giáo và văn học Việt nam Trung Cận đại. Sđd, tr. 522. (31). Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, Sđd, tr. 55. (32). Chúng tôi dựa vào giả thuyết của Hoàng Xuân Hãn trong Lời giới thiệu Truyện Song Tinh, Nb. Văn học, Hà Nội, 1987. (33). Theo Thanh Lãng. Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Quyển hạ, Sđd, tr. 24. (34). Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên,Tập III. Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1967, tr. 15. 35. Xem Phạm Thế Ngũ, Sđd, tr. 96. 36.Trung Hoa văn học thông sử. Sđd, Quyển X. 37. Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại. Sđd, tr. 50. 38. Xem Trung Hoa văn học thông sử, Quyển IX và X. Sđd. 39. Chữ dùng của ông Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, trong buổi họp mặt với một số văn nghệ sĩ năm 1986, sau ngày ban bố Nghị quyết Đại hội VI . 40. Xem Hoàng Ngọc Hiến.Về một đặc điểm của văn học và nghệthuật ở ta trong giai đoạn vừa qua. Văn nghệ, số 23, ra ngày 9 tháng Sáu năm 1979. Và Nguyễn Minh Châu.Viết về chiến tranh.Văn nghệ quân đội, số 11-1978. 41. Trả lời phỏng vấn trên báo Văn nghệ. Dẫn theo Vương Trí Nhàn. Sự dũng cảm rất điềm đạm. Tạp chí Sông Hương, số 12-1989. 42. Nguyên Minh Châu. Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa. Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 10-1987. 43. Thụy Khuê. Hai mươi lăm năm văn học hải ngoại - 1975-2000. Đặc san Xứ Quảng xuân Canh thìn năm 2000. Hội ái hữu Quảng Nam-Đà Nẵng tại Massachusetts thực hiện. Tr. 229. 44. Trong bài Thời kỳ văn học vừa qua và hướng phát triển củavăn học. Văn học-học văn. Trường Cao đẳng sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, 1991. Tr.139. |
[ Trở Về ]