Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[ Tác giả
]
|
|
Cuốn
sử tù nổi tiếng
Thi tù tùng thoại của Mính Viên Huỳnh
Thúc Kháng do nhà xuất bản Tiếng Dân in năm 1939 được nhiều
người nghiên cứu để tiøm hiểu về Nhà tù Côn Lôn đầu
thế kỷ XX. Tuy nhiên đó không phải là cuốn sử tù đầu
tiên do tù nhân viết về "địa ngục trần gian" này.
Cuốn sử tù đầu tiên về "trường học thiên nhiên" (chữ của Phan Hy Mã) này chính là cuốn Côn Lôn truyện của Lê Doãn Hài. 1. Tác giả Phần dẫn nhập của Côn Lôn truyện viết: "Bình Long huyện, Tân Thới nhì thôn, cựu hương thân Lê Doãn Hài ư Ất Hợi niên bị phạt lưu cư tại Côn Lôn ngũ niên, Kiến Lãng Sa quan trú phòng tại thử phân bất tội nhân hành chư tạp vụ thậm ư lao khổ. Chí ư Canh Thìn niên, xúc mục tâm bi ngụ tả nhất vãn dĩ chiếu hậu lai". Nghĩa là: "Cựu hương thân ở thôn Tân Thới nhì huyện Bình Long Lê Doãn Hài, vào năm Ất Hợi bị phạt lưu đày ra Côn Lôn năm năm. Thấy quan Lãng Sa trú phòng ở địa phận ấy bắt tội nhân làm mọi việc rất là cực khổ. Đến năm Canh Thiøn vì mắt thấy sụ kiện ấy nên động lòng thương xót viết một bài vãn để lưu lại cho đời sau" (Vũ Văn Kính phiên âm và dịch, tháng 4/1983) [1]. Lê Doãn Hài là một trong những người theo Quản Hớn (Phan Văn Hớn) lãnh đạo cuộc nổi dậy đánh chiếm dinh quận Hóc Môn, diệt tên quận trưởng Trần Tử Ca vào Tất Ất Dậu (1885). Ông bị bắt đày ra Côn Lôn. Ở đây ông đã sáng tác Thơ Quản Hớn và bài Vè Côn Nôn [2]. Cùng tham gia cuộc khởi nghĩa này còn có Nguyễn Văn Quá, Phan Văn Chất. Trong lần điền dã, các nhà nghiên cứu Ban Văn học, Viện Khoa học xã hội, TP.HCM đã tìm thấy các sáng tác của Lê Doãn Hài ở Bàu Trai, Đức Hòa, Long An. Trước khi qua đời năm 1914, ông Lê Doãn Hài giao các sáng tác của mình cho người học trò giỏi nhất là Mai Chí Thanh. Mai Chí Thanh giao lại cho con gái là Mai Thị Tua gìn giữ. Ông Huỳnh Văn Xứng, chồng bà Mai Thị Tua, có phiên âm bài Vè Côn Lôn tức Côn Lôn truyện. [3] 2. Khảo chứng về năm sáng tác Côn Lôn truyện Căn cứ vào các năm âm lịch ghi trong lời dẫn thiø Lê Doãn Hài bị đày ra Côn Lôn năm 1875 (Ất Hợi) và sáng tác Côn Lôn truyện vào năm Canh Thìn 1880. Đây là sự nhầm lẫn từ cách ghi năm âm lịch. Lê Doãn Hài tham gia cuộc khởi nghĩa Hóc Môn Tết năm Ất Dậu (1885) chứ không phải Ất Hợi và sáng tác Côn Lôn truyện vào năm Canh Dần (1890) chứ không phải là Canh Thìn (1880) và Côn Lôn truyện viết sau Thơ Quản Hớn (1885) [4]. Vậy, cần khẳng định lại năm sáng tác Côn Lôn truyện là năm 1890 - Canh Dần. 3. Nội dung Côn Lôn truyện Về hình thức, Côn Lôn truyện viết theo thể thơ lục bát, gồm 128 câu.Vì thế gọi là truyện thơ hay nói là vãn hay là vè cũng được. Khi diễn xướng thì gọi là "nói thơ". Câu cuối của Côn Lôn truyện cho thấy khi đặt tên cho Côn Lôn truyện là Vè Côn Lôn cũng thích đáng: "Lóng tai nghe đọc cái vè Côn Lôn" (câu 128). Vè hay Vãn, theo Đại Nam quốc âm tự vị của Paulus Của là "chuyện đặt có ca vần". Lối đặt thơ lục bát để kể chuyện là hình thức phổ biến ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Thơ Sáu Trọng (nhà in Xưa Nay, Sài Gòn) là một minh chứng cụ thể. Nội dung Côn Lôn truyện cung cấp cho chúng ta biết về nhà tù Côn Lôn trong những năm 80 thế kỷ 19. 3.1.Tù nhân, ngoài người Việt Nam, còn có người Cao Miên, Ma Ní, Đồ Bà, Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, La Du (?). Rất nhiều tù nhân người Việt là tổng binh, đốc binh, cai đội và các viên chức cấp phủ huyện. Đây là các "quốc sự phạm" thuộc các cuộc kháng chiến Nam Kỳ (1861 - 1875) và các cuộc khởi nghĩa về sau. 3.2. Côn Lôn truyện cho chúng ta biết các cơ sở của nhà tù như Huỳnh Thúc Kháng viết trong Thi tù tùng thoại. Đó là: - Lò ngói, Lò gạch, Lò vôi. - Kho gạo, nhà thương (bệnh viện). - Các Sở Rẫy (vườn rau, phiên âm nhầm là Sở Rễ), Sở cây, Sở củi, Sở đá, Sở cưa, Sở xẻ, Sở Cà phê, Sở Chuồng bò, Sở Chuồng trâu, Sở Chuồng dê, Sở lưới (đánh cá). - Nhà cư (đốt than) và Chỉ tồn (Tạp dịch). - Sở cây: đan các loại đồ đựng như thúng, dần, nia. Sở cây còn đan gầu, bện chảo và qua đầu thế kỷ XX còn làm xa lông bằng mây, gọi là Sở ghế. - Các loại cây trồng: Do việc tiếp tế cho Côn Lôn rất hạn chế cho nên ở đảo trồng đủ thứ: lúa, mít, dưa, bắp, đậu, bông, thuốc lá, khoai, hành, cà phê ... Xem như thế cây cà phê du nhập vào Việt Nam đầu tiên, phải chăng là ở Côn Đảo? |
1. Côn Lôn trời đất sẵn dành |
[1]
- Côn Lôn truyện, bản đánh máy do Vũ Văn Kính và Nguyễn
Văn Kim sưu tầm tại huyện Đức Huệ, Long An ngày 1.4.1983.
[2] - Xem Huỳnh Ngọc Trảng, Vè Nam Bộ, NXB Tổng hợp, Đồng Nai, 2006 và Thơ Vè lịch sử - xã hội Nam Kỳ, Trung tâm Văn hóa TPHCM, xuất bản, 2007. [3] - Vè Nam Bộ, sđd, trang 435. [4]
- Giả thiết là năm Ất Hợi và Canh Thìn là đúng thì Lê
Doãn Hài đã ở tù Côn Lôn đến hai lần từ 1875 đến 1880
và từ 1885 đến 1890.
|
Xay
lúa ở làng An Hải
Sở
Rẫy (Vườn rau)
Lò
Vôi (hiện nay không còn)
Chuồng
Bò
Sở
Lưới
Chuồng
Heo