Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[ Tác giả
]
|
|
Nghe
Bụt chùa nhà
Lao động nghệ thuật Thơ ca di dưỡng tinh thần Rung động thơ Sự đầu thai của một tứ thơ Vai trò của trạng từ trong câu thơ Trí nhớ trong sáng tạo văn học |
Các
cụ ta xưa kia sống cái triết Đông chứ không suy luận miên
man về triết Đông. Các cụ ta xưa kia làm thơ chứ không lý
luận miên man về thơ.
Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ sống, nói như Phạm Quỳnh, khiến "ta thật đáng thờ (...) làm ông cha".(1) Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ thơ "động đất trời"...(2) Chưa gặp Tây, người Việt Nam coi như chỉ sống và thơ. Gặp Tây, thấy Tây luận say sưa, thỉnh thoảng ta cũng luận tí cho vui, sau khi đã sống và thơ thật đã đời. Sau hơn nửa thế kỷ sáng tạo, Huy Cận có gửi lại cho hậu thế chút suy nghĩ về nghệ thuật.(3) Cái nghĩ nói chung thấu đáo mà cách diễn cái nghĩ nhiều chỗ cũng thú vị ghê. Ai ưa luận vì luận thì đi nghe Bụt ở... Tây phương, còn ai thích luận vì thơ thì đây tiếng "Bụt chùa nhà"! Nghe Bụt chùa nhà "Cha ông" mà Huy Cận nói đây cụ thể là một người xưa nào đó đã phát biểu rằng "Văn chương là tiếng chim gọi đàn". Đối với chúng ta bây giờ, Huy Cận chính là bậc "cha ông". Vậy ta hãy chú ý lắng nghe "Bụt" Lửa Thiêng "thuyết thơ". -------- Chúng ta ngày nay có dịp tiếp xúc với nhiều lí luận văn nghệ của các nước (...) điều ấy rất bổ ích cho sự nghiên cứu, tìm tòi của chúng ta. Nhưng thiết tưởng cũng cần tìm hiểu (...) những suy nghĩ, những tổng kết của cha ông về văn học, nghệ thuật. Chả lẽ bụt chùa nhà thì cứ phải kém thiêng!Lao động nghệ thuật Nghệ phẩm có xác và hồn. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, xác và hồn cùng lớn lên với nhau, ảnh hưởng qua lại. Chứ không phải là hồn đã lớn sẵn từ đầu và trơ trơ trong khi nghệ sĩ làm xác. Một cảm nghĩ hết sức mơ hồ chợt hiện ra thành vài câu thơ rất đỗi vu vơ. Những câu thơ đầu tiên ấy giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn một chút, hiện ra thành những câu thơ bớt vu vơ hơn một chút, rồi những câu thơ mới này lại giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn chút nữa v.v. Nghệ sĩ sáng tạo, không phải chỉ làm xác mà làm cả hồn! --------- Nếu như lao động sáng tạo ra con người, thì lao động nghệ thuật sáng tạo ra con người nghệ sĩ... Người nghệ sĩ phải tự tạo luôn luôn thì mới sáng tạo được tác phẩm. Tự tạo bằng cách tự nhào nặn mình trong cuộc sống, qua hành động, và cũng tự nhào nặn thường xuyên qua lao động nghệ thuật nữa. Chính lao động nghệ thuật ấy tiếp tục sáng tạo ra nội dung, sáng tạo ra tâm hồn. Không phải rằng lúc ta đến bàn viết, lúc ta vào xưởng vẽ là ta đã có sẵn, hoàn chỉnh, tác phẩm trong đầu và chỉ còn cái việc thể hiện ra bằng tay vẽ, tay viết. Làm như là đã mang sẵn tác phẩm trong tâm trí và chỉ việc phiên dịch ra bằng ngôn ngữ nghệ thuật, bằng chữ hay bằng nét vẽ hoặc màu sắc! Trăm lần không phải như vậy! Lúc anh ngồi vào bàn hay vào xưởng, anh chỉ mới có cái "khung", chỉ mới có một niềm xúc động. Nhưng anh còn phải lao động đổ mồ hôi để cụ thể hóa niềm xúc động ấy, để cho niềm xúc động ấy đầu thai vào những hình tượng, thành những hình tượng. Anh còn phải vật lộn trầy xương với cái vật chất của chữ, của vật liệu, của đường nét, của màu sắc, của âm thanh, làm cho cái vật chất ấy chịu nói cái tâm hồn mà anh cảm thấy đang hình thành, mà không có vật chất ấy thì cái tâm hồn kia cũng không hình thành được (...)Thơ ca di dưỡng tinh thần Làm hay đọc một bài thơ hay, đều được sướng. Nhưng người làm thơ sướng nhiều hơn người đọc thơ. Vì ngoài cái sướng trong tư cách một người đọc bài thơ đã làm xong (thi sĩ cũng là một độc giả của thơ mình), người làm thơ trước tiên có cái sướng trong khi sáng tạo. Ồ, trông thấy tận mắt một cảm nghĩ hết sức mơ hồ nhờ sự cố gắng và năng khiếu của mình mà hiện ra thành lời, lớn dần, chín dần thành một bài thơ giá trị, sướng để đâu cho hết! Kẻ trồng cây sướng hơn người chỉ ăn quả, như thế cũng là lẽ công bằng. ---------- Các cụ ta ngày xưa thường nói "thơ ca di dưỡng tinh thần". Đúng lắm! (...) (Thơ giá trị chứa) một trạng thái tâm hồn, hơn thế nữa, một trạng thái tâm thần (...) cởi mở, thư thái mà sôi nổi, hào hứng mà lắng trong, một trạng thái toàn diện trong đó ý và tình đều như đang sinh ra, đang nhú lên, tình đang đọng thành ý, ý còn mang tất cả cái rung động của tình, một trạng thái tinh khôi, sáng tạo. Tâm thần được nuôi nhiều bằng (thứ) trạng thái ấy. Đúng là một chất di dưỡng cho tâm hồn. Có cái gì giống như là trái đang chín cây, chứ không phải chín dú. Trạng thái đang chín đó đã truyền từ tâm hồn người làm thơ, qua cơ thể bài thơ, câu thơ. Bởi một bài thơ hay là một cơ thể sống trong đó ý và tình, cảm giác và cảm tưởng, chữ và nhịp, hình tượng và nhạc điệu, tất cả đều tồn tại trong một thể thống nhất, gây thành một xúc động thống nhất, toàn diện. Tóm lại là một hiện tượng của sự sống, không phải là một sơ đồ. Hiện tượng ấy là một hiện tượng cởi mở, đón chờ, đang chín, thuận cho mọi sự thai nghén, tụ thành.Rung động thơ "Nỗi-niềm-tinh-vân", so sánh hay và đẹp quá! Nhưng khi Huy Cận bảo "Thưởng thức thơ là phải biết sống lại (...) quá trình từ nỗi-niềm-tinh-vân đọng lại dần thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ", thì e rằng ông đã đòi hỏi quá nhiều nơi người thưởng thức. Chẳng những độc giả không tài nào "sống lại" quá trình sáng tạo của thi sĩ, mà chính thi sĩ có lẽ nói chung cũng khó thực sự sống lại được cái quá trình sáng tạo một bài thơ nào đó của mình! Lần trước nói thi sĩ sướng nhiều hơn độc giả vì đã sướng ngay từ lúc còn đang sáng tạo. Lần này xin nói thêm rằng cái sướng "đầu tiên" ấy có lẽ nói chung chỉ hưởng được có đúng một lần. Trong khi cái sướng thưởng thức bài thơ làm xong thì cứ mỗi lần đọc lại là mỗi lần hưởng lại! ---------- Rung động làm ra thơ, làm ra nghệ thuật, cũng cùng loại với rung động của tình yêu. Bắt đầu yêu là một niềm xao động, bắt đầu của một tứ thơ cũng là một nỗi niềm, mà tôi muốn gọi là nỗi-niềm-tinh-vân. Bắt đầu chưa có câu, chưa có lời, thậm chí chưa có tứ cụ thể. Câu sẽ đến sau, lời sẽ đến sau. Nhưng trước hết là một nỗi niềm ùn ùn trước ngực, rạo rực tâm hồn. Bắt đầu là tinh vân, tinh vân đọng lại mới hình thành mặt trời, mặt trăng và các hành tinh... Từng câu, từng lời cũng như những hành tinh, mặt trời, mặt trăng đọng lại từ tinh vân nguyên thủy.Sự đầu thai của một tứ thơ Đọc Huy Cận sau đây, chợt nghĩ tới chuyện dịch thơ. "Hồn và xác của một bài thơ quyện nhuyễn vào nhau làm một"... Hai cái quyện nhuyễn làm một, nên hễ đụng tới cái này là đụng luôn tới cái kia, mà dịch là đụng hết sức mạnh tới xác, là thay hẳn xác, tức không đừng được cũng là thay hẳn hồn. Vậy bài thơ dịch không có chút liên hệ gì với bài thơ nguyên tác hay sao? Không hẳn như thế. Hồn của một bài thơ là một "tổng thể xúc động" trong đó có tứ. Bài thơ dịch có liên hệ với bài thơ nguyên tác vì hồn của nó chứa tứ của nguyên tác. -------- Sự đầu thai của một tứ thơ vào một thể lọai thơ, vào những hình tượng thích ứng, đó là một quá trình hào hứng và rộn rực, có khi dằn vặt. Một quá trình có qui luật của nó. Không phải tứ thơ nào cũng có thể khuôn vào bất cứ hình thức, thể lọai nào. Trong đời làm thơ của tôi, có mấy lần tôi phải thay áo cho thơ, phải đổi thể lọai thì tứ thơ mới bật ra được.Vai trò của trạng từ trong câu thơ Những chữ mà Huy Cận gọi chung là "trạng từ" thực ra thuộc hai nhóm từ khác nhau.(4) "Nao nao" là từ cụ tượng hữu cảm, vì nó vừa mô tả vật cụ thể vừa chứa cảm xúc của người nhìn. "Bâng khuâng" là từ trừu tượng cảm xúc, vì nó không tả vật cụ thể nào hết mà chỉ chứa cảm xúc. Hai nhóm từ vừa nói trên nếu người làm thơ khéo dùng thì sẽ có "hiệu quả (...) vô cùng lớn lao" đối với giá trị nghệ thuật của câu thơ. Từ lâu tiếng Việt đã hết sức giàu hai nhóm từ ấy! Vật liệu thơ đã sẵn sàng, chỉ cần chờ... Nguyễn Du múa bút khiến chúng kết lại với nhau thành tuyệt phẩm văn chương! --------- Trong câu thơ, mỗi chữ, mỗi tiếng không chỉ mang cái nghĩa nguyên sơ của nó, cái nghĩa định trong từ điển của nó, mà thấm nhuần cái sức xúc cảm của chữ bên cạnh, của chữ láng giềng; chữ trước nó và chữ sau nó tỏa điện vào nó, biến nó thành một nghĩa mới, mang cảm xúc mới. Đây không phải là một vấn đề hình thức mà thôi. Sở dĩ có hiện tượng truyền điện như vậy là do có một luồng điện, tức là ý thơ, hồn thơ nó chạy suốt qua câu thơ. Vì vậy trong một câu thơ có một độ tối ưu để sắp xếp các chữ, các ý. Nếu tham nhét nhiều thứ quá, nhiều tính từ quá vào một câu thơ thì tăng điện trở, tăng chướng ngại vật, luồng điện thơ không qua được. Cũng vì vậy mà trạng từ có vai trò đặc biệt, trạng từ có sức dẫn điện cao. Vì sao? Phải chăng trạng từ nói lên dáng dấp của sự vật, dáng dấp của tâm hồn. Mà cái dáng dấp ấy linh hoạt lắm. Khéo dùng trạng từ thì câu thơ dễ truyền đạt cho ta trạng thái tâm hồn thông qua trạng thái sự vật.Trí nhớ trong sáng tạo văn học Có lẽ có thể nghĩ như thế này: Đối diện thực tại, giác quan thu hình ảnh rồi tâm hồn nẩy sinh ấn tượng về hình ảnh. Nhớ có thể là nhớ hình ảnh, có thể là nhớ ấn tượng, có thể cả hai. Làm nghệ thuật cần ấn tượng. Nếu mất ấn tượng mà còn hình ảnh (trong trí nhớ hoặc sổ tay), có thể ngắm hình ảnh để cố nhớ ấn tượng. Kể ra, có thể ngắm hình ảnh cũ mà nẩy ấn tượng mới, nhưng thường thì nếu việc xẩy ra lâu rồi khi ngắm lại hình ảnh cũ ta chỉ... trơ mắt ếch chứ không cảm thấy thế nào cả. Nếu không nhớ nổi ấn tượng cũ, cũng không sinh nổi ấn tượng mới, thì đành không làm được nghệ thuật. --------- Trí nhớ cũng cần cho sáng tạo văn học, vì trí nhớ (...) tích lũy vốn sống, chất liệu của nghệ thuật (...) Phải trau dồi trí nhớ. Sổ ghi chép là cần thiết, nhưng không đủ, nếu không có trí nhớ làm gốc (...) Có hai loại trí nhớ (...) hay đúng hơn là hai cách nhớ: Một là nhớ các sự việc, chi tiết của sự việc, có khi cả chi tiết tỉ mỉ (...) bên cạnh (...) còn cách nhớ trạng thái tâm hồn của chính bản thân tác giả lúc sự việc (...) đang xảy ra (...) Có lẽ cách thứ nhất cần nhiều cho người viết tiểu thuyết, và cách nhớ sau cần cho người làm thơ nhiều hơn (...) lúc làm bài thơ là lúc phải sống lại đầy đủ xúc động của tâm hồn (...)______________ (1) Phạm Quỳnh, "Luận về quốc học", Nam Phong số 163, 6-1931. (2) Tố Hữu về Nguyễn Du: "Tiếng thơ ai động đất trời / Nghe như non nước vọng lời nghìn thu". (3) Tất cả những đoạn trích dẫn đều từ Tuyển tập Huy Cận II - Thơ và văn xuôi. (4) Xem bài Tương Lai Từ Vựng Tiếng Việt của TT, đăng trên trang gocnhin.net. |
|