Chim
Việt Cành Nam [
Trở
Về ]
[ Trang chủ ]
[ Tác giả ]
|
18-5-2012
|
|
"Mười yêu không bằng người tình cũ Mười nhớ không bằng nhớ bản xưa" |
Thôn
bản là hình ảnh thu nhỏ của xứ sở. Bản (làng) dân tộc
Thái đầu tiên khi tôi đến ở là bản Nà Nghịu bên bờ
sông Mã (thượng nguồn). Tiếng Thái có nghĩa là "bãi cây
gạo". Đó là mấy chục ngôi nhà sàn (gỗ, tre, nứa, gianh),
mái hình mai Rùa, ở 2 đầu hồi có 2 tia "khau cút" (hoa nhà)
sơn vôi, kẻ hoa văn đen như 2 cánh chim đang vẫy bay lên rất
điệu đàng và rất bản sắc, không ở đâu có ngoài Tây
Bắc Việt Nam.
Bản Thái, theo truyền thống thiên di từ vùng "xíp xoong păn na" (Vân Nam) sang đây đã trên 10 thế kỷ, theo "Quắm tố mướng" thì bà con "Thái tộc" thời ấy phải đi luồn rừng như con Don, con Dím để tránh cường hào và ác bá Hán tộc và sợ các quan Đại Việt không cho ở nhập cư...Dấu vết "đi đêm" để nhận ra nhau đồng tộc là cái "hoa nhà" (Khau cút) và cái hình mặt trăng lưỡi liềm nơi cửa sổ (đặc trưng của nhà sàn Thái). Bản Thái phổ cập 20 - 30 nhà, 50 - 70 nhà tùy theo số ruộng và nguồn nước để sinh sống. Bản thường chiếm vị trí đặc trí đứng lưng chừng núi (đồi) để tựa lưng một cách vững chắc, tập quán cư trú "hua mun đin, tin mun nậm" (đầu gối đất, chân đạp nước), phía trên là đỉnh núi, chỏm rừng nơi có nguồn nước (thượng nguồn) chảy về (theo máng) rót vào từng nhà, nơi đỉnh có rừng cây mây ủ tiếp với "Mường trời" (cõi linh thiêng), che chở cho bản làng. Dưới chân bản thường là sông, suối, cánh đồng...địa điểm bản thuận tiện cho canh tác (lúa nước, nương rẫy, săn bắt, hái lượm), kinh tế nông nghiệp dựa vào tự nhiên khá hoàn thiện. Bản Thái: nhà nhà xếp hàng ngang, từ thấp lên cao, quay quần theo dòng họ (thường có ba đến bốn họ: Lò, Cầm, Quàng, Cà...) tắt lửa tối đèn có nhau, chỉ cần ai đó săn được 1 con thú nhỏ (con hoẵng, đơm được vài con cá to, là tối đó cả Bản lại ngất ngư chén "lẩu xiêu" (rượu cất) bên bếp lửa, hát "khắp" (Tản chụ, xiết xương) đến thâu đêm. Làng người Kinh là nằm trong lũy tre xanh, trung tâm là ngôi Đình với cây đa bến nước, ao làng. Bản Thái không có cổng, lối vào tứ phía...trung tâm bản thường là "nhà Trường bản" (trưởng thôn) liền đó có ngôi nhà đất, gianh tre vừa làm lớp mẫu giáo vỡ lòng, dạy chữ Thái cho trẻ con (trước khi vào lớp 1 phổ thông) coi như "nhà văn hóa" nơi hội họp của bản. Sinh hoạt cộng đồng bản: quan trọng nhất là tổ chức sản xuất rồi đến sinh hoạt văn hóa (cúng bái, lễ hội). Trưởng bản thường kiêm tổ trưởng sản xuất hoặc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp (ở quy mô nhỏ). Sáng ra (vào thời điểm tháng 6/mùa hè) khi gà gáy sáng, ngựa trong tàu (hí) "chàng lụ khươi" (trai ở rể) dậy sớm mài dao cho cả nhà; anh chủ nhà dậy xem trâu xem ngựa; chị chủ nhà bồng con đang bú sang cho mẹ ôm ru ngủ, rồi đi xôi lại chõ cơm xôi...xong bốc chia vào từng "cóm khẩu" (giỏ xôi nhỏ) "ép khẩu" (giỏ xôi lớn). Khoảng 5 giờ tinh mơ "tiếng trống đi làm vang gốc núi" từ nhà Trưởng bản (tổ trưởng hay chủ nhiệm) đánh 3 hồi dài, kết thúc bằng 3 tiếng nhằm gọi mọi người lao động (như đã phân công) hôm nay lên núi Pu Luông làm cỏ lúa nương, ngô nương. Anh chủ nhà dắt ngựa đi đầu, kéo theo một đoàn trên 10 lao động chính (cả nam lẫn nữ) nối đuôi nhau trên con đường mòn men theo các sườn núi "Khửn Pu "Khửn Pu...." Đi hơn 2 tiếng đồng hồ, mặt trời đã ló phía chân núi đằng đông, dòng sông Mã trông chỉ bằng chiếc đũa là tới những vạt nương rộng, lúa ngô đã lên trên đầu gối tới ngang ngực (đứng cái)...ai nấy: Nam thì phát cây dại, nữ thì cào cỏ nương bằng các cái "chóp"...khí trời mát mẻ, chim hót véo von ở rừng bên, cây cối xanh tươi mơn mởn...khoảng 11 giờ trưa, nắng oi oi, trời đứng bóng, nương rẫy dọn cỏ xem ra đã sạch tinh tươm...tất cả lùi sang lán bìa rừng (lều nương): để phòng mưa nắng, nghỉ ngơi, ăn trưa cơm xôi chấm muối ớt (món chéo) cùng ít rau xôi đem từ nhà, ít thịt khô, cá ướp...cơm ép khẩu phần nhà nào nhà nấy ăn, cũng có phần san sẻ...vui vẻ, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Cơm xong cánh nam làm điếu thuốc Lào rồi ngả lưng chợp mắt, cánh nữ thì tranh thủ đan lát, khâu vá hoặc vào bìa rừng kiếm củi, kiếm rau lợn, rau rừng. Từ 1 - 3 giờ thu vén và thu quân "mã hồi". Về tới bản, cánh chị em chưa kịp lên nhà đã ra mó nước "kẻ xuộng xựa" (cởi váy áo) ào ào tắm rửa...cánh đàn ông đem lưới ra sông vây bắt cá. Cuối chiều: Chị chủ nhà tắm rửa cho con, rồi lo cho lợn gà ăn, cô em gái ra sông suối hái bon (rau) xúc ốc, chàng rể tắm cho ngựa. Chập tối một lúc 7 - 8 giờ tối cả nhà quây quần bên mâm cơm, thường là món cá nướng (pa mốc, pa pịnh) thơm ngon, canh bon nấu ốc hay canh cá nấu măng chua. Aên xong, bên bếp lửa: cánh đàn ông đan lát, vá lưới, cánh đàn bà dệt vải, chàng rể ra sông "quăng chài" hoặc đơm "đó", lũ lợn gà ăn no ngủ kỹ...mọi thành viên trong gia đình ai nấy về "buồng nằm" của mình đánh giấc...Từ khoảng 10 - 11 giờ đêm cả bản đã ngủ yên thì cánh trai tơ ở các bản bên "pay ỉn sao" (chơi gái) đem tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn Tính đến "chọc sàn" thức các cô gái tơ (sao) dậy, để "tìm hiểu" bằng các cuộc hát giao duyên bên sàn (phía đầu chan) hay ra sàn "Hạn Khuống" mé rìa bản tình tự thâu đêm. "Chào bản quê thân yêuChao, hồn quê ở xuôi là cây đa rợp bóng sân đình, còn hồn ở bản quê yêu dấu là cái Khau cút (hoa nhà) để ai đó đi lâu trở về từ xa đã nhìn thấy nó như những cánh chim bay lên mừng vui chào đón đứa con tha hương còn nhớ trở về.
|
"Cơm Tàu, cơm Tây ... nhớ về đây cơm bản Nếp xôi thơm, bên bếp lửa em chờ" |
"Cơm
Thái, gái Kinh" câu nói chơi cửa miệng của cán bộ Tây Bắc
một thời (cán bộ Kinh thì thèm cơm bản Thái, cán bộ Thái
thì khoái lấy gái Kinh). "ăn" uống là điều kiện hàng đầu
để tồn tại sự sống. Cơm Thái cổ điển là ăn nếp xôi
truyền thống. Đó là các loại gạo nếp tan, khẩu ma tứn
(gạo chó dậy: Cơm xôi thơm quá đến con chó đang ngủ đánh
hơi thấy cũng phải vùng dậy). Gạo nếp ngâm qua đêm, với
bàn tay của các mẹ, các chị vo sạch, để ráo nước, rồi
đổ vào một cái Hày" (chõ gỗ: một khúc thân cây khoét rỗng).
Người Thái không có tục "luộc" như người Kinh (cơm bằng
gạo luộc, rau luộc, thịt luộc, mà thường là "xôi" (đồ)
bằng nhiều loại "hày" khác nhau (gỗ cây sung co cổng, co đứa),
phần dưới của dụng cụ đồ xôi là cái "ninh" (biếng mỏ
nửng) bằng đồng đúc... nhờ "xôi" nên thức ăn đậm (không
bị nhạt). Từ gạo nếp, người Thái còn chế biến ra các
loại bánh như "khẩu tổm" (bánh tét) Khẩu tổm năm lãng (bánh
giò), khẩu cắm (xôi màu), khẩu hang, khẩu lam, khẩu chí (xôi
nướng). Khẩu lam trộn sâu măng là đặc sản ngon đặc biệt.
Nhân loại có các nền "văn minh thìa dĩa" (Âu Mỹ), "văn minh đũa tre" (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt Nam) và "văn minh ăn bốc"... người Thái đen Việt Nam ở Sơn La thì trong mâm cơm: Mỗi người bao giờ cũng có bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa... riêng ăn cơm nếp xôi thì "bốc" (tay đã rửa sạch); chỉ khi ăn cơm tẻ thì xới ra bát, lấy ăn thì xúc, chứ không quen "và" như người Kinh. Ăn canh thường không "chan" mà dùng thìa múc đưa thẳng vào miệng. Bát chấm mặn thường là muối ớt cộng mắc khén (hạt tiêu rừng) hoặc bát nước chấm pha chế (nậm pịa khi ăn thịt trâu, bò, dê). Các món rau trong mâm cơm Thái: ½ là rau rừng (phắc ven,... có tới 80 loại), số rau trồng ở xuồn phỏm (vườn gầy)... như rau cải (phắc cát), các loại củ quả bầu bí, mướp, cà... tất cả đều được đồ chín (nửng) kể cả rêu, măng, mùa xuân có món "măng đắng", mộc nhĩ, nấm các loại, canh măng chua (nậm xổm đanh), món "xổm" ghém, rau sống, rau hoa chuối nộm... Tục kin xổm (món chua) đủ cả "kin xổm, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, ngọt, chín, sống) rồi món "tương thối". Với người Thái "cơm trắng, khúc cá bạc" là biểu tượng của no đủ hạnh phúc. Các món ngon là "pa pỉnh" (cá nướng kẹp), pa dảng là cá sấy trên dàn bếp, pa mốc (vùi tro), cùng với "pho pa": Các loại cá tép, trạch, ruột cá lớn gói cùng húng chó, hành sả vùi tro nóng ăn rất thơm ngon, pa óm (cá nấu), pa tổm (cá luộc)... với các loại cá nheo (pa cao), cá quả (pa con), cá trê (pa đúc)... pa cỏi (lên men chua) món gỏi (cỏi hắn) với quan niệm "xép nhứa kin nhứa ma, xép pa kin pa cỏi" (thèm thịt ăn thịt chó, thèm cá ăn cá gỏi). Các món mắm cá (mẳm pa) mắm tôm (mẳn củng), mắm từ những con bọ nước (mẳn pa dí), mắm tắc ten (châu chấu)... Các món thịt: Như nhứa đảng (hong khói) pỉnh chí (nướng), mản (nướng bằng xiên); thịt con hoẵng (tô phan) làm "lạp" trộn với măng chua, chấm nậm pịa (đoản nước bắt phèo, một thức đặc sản "nhứa quai tộm nậm pịa, thuổi lạp têm chem" (thịt trâu luộc, nậm pịa, bát lạp đầy ắp). Mâm cỗ thường khoái món tiết canh, tiết luộc... ngoài ra có món "nhứa min" (thịt thối): trộn gia vị cho vào ống, đốt chín thành một thứ thịt nhuyễn nặng mùi rất hợp khẩu vị. Các món gia vị thường nhật là ớt, mắc khén (hạt tiêu rừng) củ sả, gừng, riềng, hành tỏi, rau thơm... điển hình là món "chéo" để chấm. Món canh Thái: Ưa dùng bột gạo để nấu canh, tạo cho canh ngọt sánh. Cơm bản Thái: Thường ngày ăn bữa chính vào buổi tối. Sáng ra ăn lót dạ (bốc ít xôi, chấm muối ớt) bữa trưa thường ăn ở nơi làm việc (ngoài đồng, trên nương. Ăn đơn giản gọn nhẹ gồm xôi, ít rau chấm muối ớt, ít thịt cá khô, nướng...). Bữa ăn tối là bữa cơm đầy đủ các thành viên trong gia đình. "ăn trông nồi ngồi trông hướng" khá trật tự nề nếp (bài bản): Chủ nhà ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái, trai phía phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ nhà). Các món đặc biệt là dành cho trẻ con (nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà thì: Đầu, cánh, chân là dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua... Có khách: Uống rượu cất (lẩu xiêu) theo ông chủ: 1 chén rượu húp một thìa canh măng chua... Nói chung bữa cơm bản là bữa cơm bình dân, đạm bạc. Chủ lực vẫn là món cơm xôi nếp, măng và rau rừng là món hàng ngày, thức ăn chỉ là đưa đà để ăn được nhiều cơm (no). Tháng 3 ngày tám, thiếu gạo thường độn thêm sắn (nạo) ngô hoặc ăn thêm củ mài đào trên rừng. Mùa nước lên có thêm món cá, sang xuân săn được con chim, con don, con dím... bổ sung cho món ăn... Thịt lợn, thịt trâu phải là có ma chay, cưới xin, tết nhất, cúng nhà mới... Dẫu sao thì bữa cơn bản Thái thời 1960 ở Sơn La vẫn là bữa ăn no đủ, ngon hơn hẳn bữa ăn thời HTXNN của người Kinh dưới xuôi một thời ăn công điểm là chính. |
|
|
|
|
* Người thức giấc giữa mây ngàn gió núi Hồn ngỡ là bay với trăng sao * Về kinh xa bản xa Mường Đêm mơ tiếng suối bên giường chảy quanh. |
Chao
ôi, các cụ ta có câu "đêm năm (bằng) năm ở"... thế thì
vào những năm 60 (thế kỷ 20) đêm ngủ ở bản Thái là lý
tưởng nhất. Nhà sàn cao ráo, thoáng mát: Đầu gối núi, chân
đạp sông... 1 anh bạn tôi (Phạm Văn Cống - quê Thanh Hóa)
có 4 câu thơ vui về một thời hoang sơ để nhớ.
Về đây công tác xã Chiềng Hoa* Cán bộ xuống "cắm bản" được xếp ngủ một gốc "Quản" đệm dày, chăn mới, màn 1 bộ đội xanh lá cây, thì cán bộ ai chả có 1 chiếc để chống muỗi Anôphen (phòng sốt rét), phong tục kiêng màu trắng (có tang) Ngủ bản, đêm thao thức nhớ quê, lên ở cái xứ "trâu gõ mõ, chó trèo thang, nước giã gạo" với tiếng "chày đêm nện cối đều đều suối xa", chập chờn với trăng nhòm qua vách liếp... Cách vài mét là màn đen cô em gái chủ nhà tuổi trăng tròn "kẻ xuộng xựa" (ngủ truồng) đêm nóng nhoài ra ngoài màn da thịt trắng ngần như thần vệ nữ. Ngủ bản được nghe tiếng gà gáy sang canh, chim cu gù bên mái, lợn ủn ỉn dưới gầm sàn, ngựa gõ móng trong tàu ngựa, vài tiếng chim cú vang lên phía Pa heo (rừng ma) nghe ghê rợn... Ngủ bản, khuya khuya khi bếp lửa đã tàn, vợ chồng nhà anh chị chủ yêu nhau làm tình cả mặt sàn nhẹ rung lên phấp phồng hơi thở... Ngủ bản: Phía rừng xa vang về tiếng Nai tác, hoẵng kêu gọi bạn tình xao xuyến hồn trai chưa vợ. Ngủ bản: Con mối vách (Thạch sùng) tặc lưỡi đuổi nhau như đang thở than "ai đó giầu như Vương Khải - Thạch Sùng cũng có phen tường xiêu, mái đổ..." Ngủ bản: Hư hư thực thực, nhớ nhớ quên quên - rồi thiếp đi một giấc thanh thản sau một ngày lao động (đi nương, ra ruộng, đánh lưới trên sông, mệt mỏi, vô tư...) Chao ôi, ai đó ở lầu son gác tía nơi Thủ Đô - Phố thị ồn ào hiểu sao được ngủ bản? Và chao ôi, ai đó nghèo hèn culi, đĩ điếm nơi vỉa hè, gầm cầu có hay đâu ngủ bản? Chao ôi, sung sướng gì bằng ai đó có tuần trăng mật ở bản? khi đôi lứa thanh tân lặng lẽ chui vào cái buồng màn đen kín mít đó là bóng đêm, huyền diệu "tay quờ tay, chân quặp chân, môi kề môi, thân đè thân với hơi thở nồng, đó là vườn địa đàng nơi nhà sàn bếp lửa "một mái nhà gianh hai trái tim vàng, một con suối nhỏ" để mà yêu, mà hiến dâng, mà thụ hưởng hương vị ngọt ngào thanh xuân bốc lửa..." Ngủ bản, khi yêu đã mệt lử rồi... là êm đềm hơi thở giữa không khí trong lành, thanh bình... mà biết bao người (kể cả tỉ phú) mơ mà đâu dễ có được? Ngủ bản, là duyên phận, là trời cho, như ta được kho báu mà ta đâu đã hiểu được? Than ôi, tiếc thay, tiếc thay... được mấy ngày ngủ bản?! |
|
Sơn
La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện
tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước),
có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện
với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người.
Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Man (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào). Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa. 24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh. 9.9.1891 thuộc Đạo quan binh 4. 27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu. 10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay. 23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ. Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La. 1948 - 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu). 1953 - 1955 thuộc khu Tây Bắc. 1955 - 1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo. 1962 - 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ. Sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc, Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của Nghĩa Lộ giải thể. Sơn La- xứ Thái xưa là 1 vùng biệt lập do núi non hiểm trở, lại là đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà, sông Mã, ma thiêng nước độc "nước Sơn La, ma Vạn Bú" ở xuôi chẳng ai lên đó làm gì. Đó là nơi cai trị của các vị "Chẩu Mường" hướng về vua Lào ở Luông Pha Bang là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo Mường Lò (Nghĩa Lộ)... phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người Thái ở đây còn giữ được khá nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 năm sang Việt Nam cư trú? |
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao, sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi". |
Đó
là đoạn sông Mã (sông Ngựa) ở đoạn giáp ranh từ Sầm
Nưa (Lào) đổ vào Thanh Hóa (Mường Lát) kề với Xuân Nha
Sơn La... còn đoạn trên gọi theo dân bản địa (Thái) là
Nậm Ma (sông Chó).
Sông Mã có 2 nguồn: Nguồn thứ nhất từ núi Tuần Giáo (nam tỉnh Điện Biên) chảy theo hướng Tây bắc - đông nam qua huyện sông Mã (Sơn La) rồi qua lãnh thổ Lào. Nguồn thứ 2 từ núi "Pu Xam Sao" (núi 3 cô gái)... cả 2 nguồn này đều đổ về Thanh Hóa từ Sầm Nưa, rồi giao lưu với sông Chu (sông Trâu) đổ ra vịnh Bắc Bộ, tất cả dài 512km, trong đó trên lãnh thổ Việt Nam 410km, qua Lào là 102km. Tên gọi: Dân gian (sông Mã) vì dòng nước chảy xiết như "ngựa phi". Tuy nhiên theo n/c về từ nguyên học chữ "Mã" là "Mẹ" - nghĩa là sông lớn như. (Ở Lào mè khoỏng = MêKông, ở ta sông Hồng là sông cái). Sử Việt gọi sông Mã là "Lỗi Giang" .Bên Lào là Nậm Mà. Sơn La gọi "Nậm Ma" (Mẹ là Êm) "ma" là con chó - có lẽ vì ở thượng nguồn dốc chảy xiết kêu như chó sủa. Sông Mã chảy về đến Nà Nghịu (huyện Sông Mã Sơn La) rông cỡ con sông Cầu, 2 bên bớ là đồi núi cao vút không có đê, dòng sông khúc khuỷu, mùa cạn lòng sông trơ những tảng đá gộc, đã lồi đầu, có đoạn có thể lội bộ qua được để ta lại nhớ câu "sống chụ". * Phôm dú hua lứm cấu chắng lứm chụMùa cạn này, đêm đêm lũ con trai từ bản Nà Hin bên sông lội tắt sang bản Nà Nghịu "chọc sàn" tìm bạn tình. Đó cũng là mùa các cô gái ra sông vớt rêu (1 món ăn đặc sản): "Sông nhiều rêu, nhiều cáNgồi ở bên sông ta như thấy cái luân hồi của ta. Tháng 6, mưa lớn thượng nguồn... chiều qua còn như một dòng sông chết (cạn bằng lòng đĩa) mà sớm nay tất cả như bừng lên ầm ầm gầm réo hơn cả tiếng chó sủa, ngựa phi. * Bó Áy Khảm nậm Ma khi khonLũ về, sớm mai khi con chim Tăng Ló bên sông réo gọi, các chàng rể (lụ khươi) lò mò lội ven bờ "xem" các cái "đó" mà chàng ta "đặt" tối hôm trước "chờ nước lên" chắc mẩm sẽ vớ được vài con cá măng, cá chiên to hăng nước đầu mùa không may chui vào "đó" (lờ to) làm bữa ngon cho dân bản. Lũ về, mình là trai Đình Bảng, từ Hà Nội lên thượng nguồn Tây Tiến cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ, nửa đêm về sáng giật mình nghe sông réo... sớm mai ra bờ sông trông dòng sông chảy xiết, trong lòng lại vang lên khúc Trầm hùng của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. "Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê"... Còn ở đây thì sông đổ ầm ầm, qua các ghềnh đá đổ thác bọt tung trắng xóa cứ như bờm đàn ngựa bạch đang phi hết tốc độ xông ra chiến trường cùng bom rơi pháo nổ vang rền, thật đúng là "Sông Mã gầm lên khúc độc hành"... Lũ lên nhanh là lũ ống lũ quét cỏ cây hai bờ được một phen dọn sạch đôi bờ đất chỗ lỡ, chỗ bồi, bãi ngô, ven sông lại được phen tắm phù sa trồi lên xanh mởn... Sau vài ba tiếng lũ lên cuồng nộ, thượng nguồn dứt mưa, thì con sông Mã "ngựa phi" lại trở thành Nậm Ma (chó sủa) ào ào, tấm tắc thân quen như con mực, con vện về nằm ngang dưới chân cầu thang, thật là: Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
|
|
Ởngười
Thái: con gái khi lên 13 tuổi, trai 15 tuổi thường tổ chức
nhuộm răng đen. Lấy cây "mạy cù", mọc ở núi đá, đốt
lên khói hơ vào miếng mai sắt thành giọt nước, trai gái
nắm tay nhau, kể anh chị em. Trai lấy ngón tay miết giọt nước
trên mai (cái mai đào đất) tra vào răng gái, gái tra vào răng
trai. Sau đó hai người nắm tay nhau xuống thang đến bậc cuối,
cùng nhảy xuống. Từ đấy trở thành trai gái thiếu niên.
Từ đấy trở đi mới được ra chơi "Hạn Khuống" hát giao
duyên tìm hiểu nhau (nghĩa là sang tuổi cập kê):
* Xíp pi ủa chắng dựt pên saoKhi 2 người tỏ tình gọi là "ổ báo sao". Tiêu chuẩn là con gái phải biết se sợi, dệt vải, con trai phải biết đan lát những đồ dùng trong nhà. Gái sau khi có chồng con phải lo quần áo mặc, chăn đệm nằm cho chồng con. Trai phải lo tự túc đủ các thứ đồ dùng lặt vặt để đựng thóc gạo, rau, thịt cá, đồ dùng nấu cơm.v.v... Tục cưới xin: Sau khi trai gái đã tìm hiểu "yêu nhau", trai nói với bố mẹ đi tìm bà mối đến thăm dò nhà gái (gọi là pay chóm), thuận thì đi đến: Lễ ăn hỏi: 1 đôi gà to, vài ba bát gạo, rượu, bánh kẹo, hoa quả đưa sang nhà gái. Ở Quỳnh Nhai cụ thể là: Đồ lễ dạm hỏi gồm: - Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kgLễ dạm hỏi: (Lễ tham pặư). Đội hình: 10 chàng trai + 5 cô gái sang nhà gái phục vụ cỗ bàn.- Thách cưới: Khá nặng Ở Mường La, Thuận Châu (thời 1960 - 1970) ngoài rượu thịt , còn là 1 máy khâu 5 con bướm (TQ) 1 xe Favorit (980đồng lúc bấy giờ: Lương phó ty có 80đồng)... ngoài ra là:Đám cưới được tiến hành trong 3 ngày 3 đêm. Ngày 1: Chuẩn bị, dặn dò, cống nạp xong. Ngày 2 (đại lễ): Thường nhà trai chọn giờ xuất phát (tránh giờ Dần) lấy giờ Mão (chớ mẩu). Đi tiền trạm là 2 chàng trai "dò đường" tránh điềm xấu (có đám tang) để tránh. Đoàn đưa rể: Ông mối, bà mối, phù rể 2 người khiêng đệm, 1 người vác chiếu (1 cót mây và 1 chiếu cói), 1 người đeo chăn, 2 người khiêng lợn, 2 người khiêng các lồng gà, 2 người khiêng rau và các thực phẩm khác, 1 người gánh các ống cá ướp. Tất cả đều mặc đúng phong tục như áo cóm cúc bạc, áo dài (xửa luông), quần áo Thái nhuộm chàm láng củ nâu. Riêng chàng rể đeo dao bên hông, vai khoác túi, 1 tay khoác nón Thái. Ông mối đội khăn xếp mặc áo dài the, quần lụa trắng. Bà mối mặc áo dài (xửa luông), tóc quấn vòng hoặc búi sau gáy, (đây là Thái trắng Quỳnh Nhai) pắn cẩu bứt láy. Có đội kèn "pí kẻo" vừa đi vừa đánh trống thổi kèn kèm pháo nổ... gây ồn ào phấn chấn. Nhà gái chọn giờ đón rể (giờ Thìn - chơ xi)... nhưng rể cũng phải được xem lá số hợp "mệnh" với vợ chồng, ông bà nội ngoại (ta nái, pú da). Tục té nước, ném quả me tròn, hạt bông vải vào đoàn nhà trai. 2 chàng phù rể bước lên cầu thang máng hẳư (gian bếp), nhà gái ngăn lối, phải lạy quỳ "xin phép" được giăng tấm vải đỏ ở phía bên khung cửa (gọi là cả hồng) ý chúc phúc nhà gái và báo là nhà đã có rể. Hai bà mối vào cửa ngồi xổm dâng 1 phong bì tiền dâng cưới đặt lên bàn. Nhà gái có 2 bà đại diện (thẩu nái) đem cơi rượu ra làm lễ đón nhận - rồi hai bên hát đối đáp. Lễ cưới linh đình 3 ngày. Rồi rể phải ở rể qua các chặng: - Khươi quản (ngủ một mình ở gian ngoài cùng) sau 1 - 2 năm mới được chung chăn gối (thời gian thử thách) - bị đuổi là mất hết. - Ở rể 1 - 3 năm. Có trường hợp không phải ở rể (do thỏa thuận 2 bên). Lễ thành hôn gọi là "xú phả": Kết búi tóc ngược "tăng cẩu": Nhà trai đem đến 1 đôi vòng tay bạc, 2 nhẫn, 1 đôi hoa tai, châm cài tóc và 2 độn tóc gói vào sải thổ cẩm. Lễ tạ ơn mẹ vợ phải có 1 đôi vòng tay bạc và 5 đồng bạc trắng. Biếu bố vợ gọi là tiền "rổ cá, rổ thịt" cùng khoảng lễ đó gọi là "tạ ơn dòng sữa mẹ đã nuôi con và ơn cha đã kiếm cá, thịt về nuôi con khôn lớn". Bên nhà gái phải có màn, thường dùng vải dày nhuộm đen chàm, có đệm và chăn gối. Sau khi "tằng cầu" bà nào tốt số thì đưa 2 vợ chồng vào nắm tay nhau trong màn (người Kinh là vào rải chiếu). Lễ cưới Thái tốn
kém, ở rể khổ ải như một thời làm nô lệ (cuông nhốc
dưới chế độ Phìa Tạo).
|
."Mường của anh có cầu gang, cầu sắt Bản của em có cầu lim lõi chắc Cầu lõi chắc bắc đôi cho anh qua lại Thăm nhau dù nắng mưa không gì ngại" - Cầm Biêu |
Chao,
"về bản" đúng như nhà thơ của bản đã tả "Bản của em
và Mường của ta/ đường đi lại quanh có uốn khúc/ đường
đi mãi hết đèo lại dốc/ đường đi qua rừng dướng, luồn
rừng giang/ và đi theo con suối về làng/ dòng suối nhỏ chảy
quanh bụi nhót/ rồi chảy lọt giàn dưa..."
Chao, bản trước mặt là sông, bên hông bản là suối. Sông buổi sớm như mặt gương phẳng lặng cho ta soi bóng. Sông có đêm nước lên gầm gào như chó sủa... còn suối bên đầu nhà quanh năm trong xanh rì rào thủ thỉ... chiều chiều đón em gái ra hái bon, xúc ốc. Chao, con đường về bản là phải luồn rừng rồi đi dọc bờ sông, lội qua suối đầu bản... Để dân bản mùa lũ không phải lội suối nguy hiểm ... thế là cả bản hò nhau lên núi vào rừng đại ngàn chặt 8 cây lim to lõi chắc, phạt hết cành lá rối xúm nhau "kéo", đẩy, bắn, bẩy tuột xuống suối "dòng" lôi về bản để bắc cầu qua suối. Trên mặt cầu được lát bằng phen tre đan để cụ già, trẻ con, trâu bò, ngựa đi qua không bị lọt chân... Chao, chiếc cầu gỗ bắc ngang con suối. Nước trên rừng lúc hiền lúc dữ" Chẳng còn lo nước lũ, suối sâu Cũng đón ông giáo Tiếp sang cầu Để người già mừng khỏi khi mình chết Không biết chữ nào bụng người còn tiếc". Chao, chiếc cầu vào bản - cầu gỗ, dân bản tự làm tự bắc cho mình bằng chính vật liệu thiên nhiên của rừng quê, nó thân yêu thánh thiện làm sao, dịu chân, mát mắt vô cùng, nắng mưa đều hiền như bản, thầm lặng thanh bình để ta: "... đi cùng emCầu vào bản thân thương là vậy. |
|
|
|
Con sông Mã chảy đến
đây chừng như chững lại, mở rộng bồi đắp đôi bờ thành
cánh đồng của Chiềng Cang, Mường Hung. Núi ở đây không
cao lắm nhưng trên đỉnh có mây phủ với rừng đại ngàn
ngút tới Thượng Lào (Hủa Phăn). Bản nhà ở đây đông vui
trù phú với những ruộng lúa, bãi dâu xanh biếc, con gái ở
đây da trắng nõn nà...
Ấy là vào hồi tháng 10/1953 có một chàng trai Thanh Hóa (Lê Gia Hợp) Đội viên Đội vũ trang tuyên truyền (Việt Minh) đã đi sâu vào vùng hậu địch, tới đây "cắm bản" để xây dựng cơ sở kháng chiến chống Pháp ở vùng biên giới Việt Lào. Ai ngờ, chàng ta lại là một thi sĩ, là cán bộ "bí mật" sống giữa lòng dân "3 cùng" với đồng bào, trước cảnh đẹp, người xinh... hồn thơ anh ta thấm đượm các khúc hát "khắp" - tình ca Tây Bắc viết theo kiểu ví von (anh là/ em là...). Thế là một bài thơ tự nhiên xuất thần: (Mường Hung = mường trong sáng) NÚI MƯỜNG HUNGBài thơ chép tay, được gửi qua "giao thông" về hậu phương... với bút danh Cẩm Giang (ý là quê vùng Cẩm Thủy - Thanh Hóa bên dòng sông Mã hạ lưu)... nhưng khi đến tay cô đánh máy (ở căn cứ báo chí) thì cô này phát hiện cái phi lý ở cái tên tác giả - ở Sơn La có họ Cầm, họ Lò... chứ làm gì có họ Cẩm? thế là cuối bài thơ in ra được đề tác giả Cầm Giang. Bài thơ sau đó được nhạc sỹ Bùi Đức Hạnh phổ nhạc thành bài "Tình ca Tây Bắc" nổi tiếng trở thành "khu ca" của đài phát thanh Tây Bắc một thời. (Nhạc sỹ thực ra chỉ lấy 1 số câu, còn là mô phỏng thơ Cầm Giang mà thôi). Bài thơ thực ra cũng chưa hay lắm, nếu so với "Tình sông núi" của Trần Mai Ninh, "Đèo cả" của Hữu Loan thì cón cách xa mấy quăng dao. Bài thơ viết theo kiểu ví von của Trường ca Tản chụ xiết xương (tâm tình người yêu): Trai đáp/ gái đáp nên có giọng điệu dân ca Thái, để người đọc dễ tưởng đây là 1 tác giả dân tộc Thái. Có câu sáng giá: "Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi" Làm ta nhớ lại từ hồi 1936, Lưu Trọng Lư đã viết: "Mắt em là một dòng
sông
Đoạn dưới "ký sự" kiểu thơ tuyên truyền hô khẩu hiệu của thời kháng chiến chống Pháp (mà Bùi Minh Quốc, Phạm Tiến Duật sau này với "đường ra trận mùa này đẹp lắm" đã vượt trên cả Tố Hữu, tất nhiên là dưới tầng Chế Lan Viên). Tuy vậy, xét về bố cục cấu tứ bài thơ (mở đầu, thân bài, kết luận) thì tài hoa thơ Cầm Giang so các cây viết thời 1946 -1954 ở Tây Bắc thì Cầm Giang vẫn là số 1. Hai câu kết có thể nói là Đẹp, khá đắt: Để anh lớn mãi thành
núi Mường Hung
Đó cũng là cái "bất tử" của một tứ thơ lạ "đẹp" cùng với quê hương xứ sở. Năm 1961, NXB Văn học có in cho Cầm Giang tập thơ "Rừng trắng hoa Ban" gồm 30 bài, bài viết sớm nhất "Quả còn" Lai Châu 7/1950, bài cuối "mở lò thông gió" 1959 ở Mỏ Cẩm Thái Nguyên... xem kỹ chỉ có 1 bài đáng giá ở trên mà thôi. Thơ khó là vậy
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bản
người Thái (ở lưng núi) không có ao như làng người Kinh
(ở đồng bằng)... nhưng việc tắm rửa cho sạch sẽ thân
mình thì người Thái ăn đứt người Kinh là cái chắc.
Ở bản có 3 cách tắm rửa: - Một là nơi "mó nước" đầu bản: Đó là nơi có ống nước tự chảy dẫn qua ống máng tre từ trên nguồn đổ về trong sạch tuôn suốt ngày đêm... thường có 2 ống: một bên nam, một bên nữ. Ngăn cách 2 bên là một phên nứa để bên nào bên ấy "tắm truồng" thoải mái. Thường thì 3, 4 giờ chiều mùa hè, dân bản đi nương, ra ruộng về, tất cả tới mó nước đầu bản là "kẻ xuộng xựa" (cởi quần áo "tắm"). Chị em thường là ý tứ ngồi xổm, khép đùi, áo được cởi vắt trên con sào bên cạnh, váy được dâng lên đỉnh đầu, ngực lưng hứng vào ống nước đang chảy, 2 tay xoa kỳ cọ thoải mái, đúng như "da trắng vỗ bì bạch", vú để tự do (là của trời cho) ai thấy cũng chẳng sao. Cánh đàn ông thì "truồng" 100% chuyện trò cười đùa rôm rả... thật cứ như nơi vườn địa đàng buổi ban đầu con người còn chưa biết xấu hổ (nả hại) - tức là khi người nữ chưa ăn trái cấm (theo lời xui của con rắn "quỷ sa tăng") nên tất cả đều rất vô tư, tắm truồng chung 1 mó nước, thỏa thích ngắm thân hình khỏa thân của nhau mà trong lòng không gợn chút dục vọng thú tính để dẫn đến tội lỗi?... - Hai là: Tắm suối (vắng vẻ là tắm truồng) - Ba là: Tắm sông Chị em thường là ngồi ngâm mình dưới nước, váy để trên đỉnh đầu hoặc váy để trên bờ. Khi tắm ở sông suối, chị em thường kết hợp gội đầu, thả làn tóc mây xòa theo dòng nước, rồi đứng dậy, vung quay tít cứ như một điệu múa tóc thật là điệu đàng của các tiên nữ trên mường trời. Người Thái rất tự hào về cái sạch sẽ da thịt của mình... chị em ngày rửa tới vài lần, lại mặc váy rộng xông xênh, nên thường nói đùa "hi của chúng tao là hi hom (thơm), chứ không bịt kín (xi líp), quần bó chặt như người Kinh chúng mày, nên hi min (thối) lắm bệnh phụ khoa". Văn minh đô thị hay hoang sơ thôn bản (trở lại cội nguồn tự nhiên chưa ô nhiễm môi trường) đang là một vấn đề nhức nhối của cái thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và con người hình như đang tự đánh mất mình để tiến lên văn minh tàn bạo. Tắm ở bản (cũng như ở ao làng ngày xưa), chao ôi, đang lùi dần vào dĩ vãng để tắm nước máy đã được xử lý bằng hóa chất (chất độc hóa học diệt khuẩn)...phải chăng ta cũng đang tự "diệt mình" làm biến đổi gen để rồi sinh ra 1 lũ con cháu vô cảm chỉ biết "tiền" và máy móc,vũ khí tiêu diệt, hủy diệt hàng loạt mà thôi....?
|
|
Lễ
tẳng cảu (tằng cẩu): Là lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu
của phụ nữ Thái đen Sơn La khi lấy chồng.
Sau lễ mai mối, chạm ngõ ăn hỏi và lễ cưới, người con gái đã có chồng thì lễ tẳng cảu làm ở nhà gái. Trong các đồ sính lễ do nhà trai đem sang thường phải có 1 chiếc trâm bạc cài tóc (mản khắt phôm)... người đảm nhiệm làm thường là bà dì, nhà gái có 2 phù dâu trợ lý tiến hành. Đầu tiên là gội đầu bằng nước vo gạo nếp (để chua) - bẳng nậm khẩu má và nồi nước lá sả, lá bưởi, lá tre... tất cả đem ra bến nước bờ suối giúp cô dâu gội đầu (như một lễ tẩy dơ bẩn trôi theo dòng suối, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn hua) thơm tho tốt lành... xong cô dâu về lên phía "tang chan" - khoảng 10 ghế mây (tắng)... cô dâu quay về phía mặt trời mọc, mọi người đứng xung quanh, 2 phù dâu áp sát 2 bên, 1 người nâng đĩa trâm cài tóc. Bà "Nai tằng cẩu" rút lược sừng đen từ cái "ếp" của mình ra làm vài động tác đưa lên hạ xuống và chải tóc cho cô dâu nhiều lần. Cuối cùng dùng 2 tay vuốt ngược từ sau gáy, đưa độn tóc đặt vào chính giữa đỉnh đầu và búi tóc "tằng cẩu"... sau khi vuốt nắn lại không còn sợi tóc nào vương lòe xòe, thì cô nâng trâm cài tóc xuyên đúng chỗ để giữa "cẩu", nổi bật đồng bạc hào hoa văn trắng ở phần đầu của trâm cài tóc chính giữa búi tóc ngược. Trước đông đủ mọi người, bà Nai cẩu nói: Khắt cẩu điNghĩa là: Gội đầu sạchTiếp theo 2 vợ chồng dắt tay nhau đi qua dọc bàn tiệc đặt dài giữa nhà đã có khách ngồi kín đông vui nâng chén rượu chúc mừng.
|
|
* Đẩy xí phiên xong hắu chắng ó kin khẩuKhi chuyển dạ, sản phụ được uống nước với cây "mậy phang" (cây tô mộc) có tác dụng cầm máu (có trong rừng hay mua của người Dao, người Hmông). Sản phụ đẻ ngay trong ngăn buồng ngủ của mình trong tư thế ngồi (ghế = tắng), đỡ đẻ thường là mẹ đẻ hay mẹ chồng, hoặc tự xoay xở (nay thì có y tá bản)... Lễ vật cúng "bà mụ": 1 con gà trắng, cắt rốn bằng dao cật nứa hơ qua lửa hay nhúng vào nước sôi để sát trùng. Rau thai được gói chôn gần nhà (kín đáo vào ban đêm). Khi trẻ đầy tháng thì cúng "hết hoóng". Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lúng ta (bên ngoại) đến đặt tên cho cháu. |
|
|
* "Nặm Té hảnh to thú chắng lứm Sông Đà cạn bằng chiếc đũa, hãy quên" *
Chúng thủy giai đông tẩu
|
Sông Đà (Nậm Te), còn
gọi là Sông Bờ hay Đà Giang, Hắc Giang là phụ lưu lớn nhất
của Sông Hồng, bắt nguồn từ Vân Nam (TQ) chảy theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam. Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983km),
bên TQ gọi là Lý Tiên Giang do 2 nhánh Bả biên Giang và A Mặc
Giang hợp thành...được dịch ra tiếng Châu Âu là sông Đen:
Black Rive (Ave), Rivière Noire (Pháp).
Đoạn bên TQ dài 400km từ núi Ngụy Bào, ở huyện tự trị người Di, người Hồi Nguy Sơn phía Nam Châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chạy theo hướng Đông Nam qua Phổ Nhĩ. Đoạn bên ở Việt Nam dài 527km (có tài liệu ghi 543km), bắt đầu từ huyện Mường Tè (Lai Châu) qua Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình tới huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) bên kia là Ba Vì (Hà Tây cũ). Điểm cuối là ngã ba sông Hồng Đà ở huyện Tam Nông (Phú Thọ). Sông Đà cung cấp 31% nước cho sông Hồng. - 1994 - nhà máy thủy điện Hòa Bình, có công suất 1920 MW (8 tổ máy). - 2005 - khởi công thủy điện Sơn La 2400 MW - xong vào 2012, sẽ tiếp ở Lai Châu. Hồ Sơn La dung tích 9,26 tỉ mét khối nước. Sự hùng vĩ của sông Đà, đó là những ghềnh thác dữ dằn gầm thét âm vang giữa 2 bờ vách đá dựng đứng, như nỗi thù hận nghìn đời giữa trời và đất để hung dữ, để tàn phá, để nhấn chìm tất cả. Năm 1958 Nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế đến với sông Đà, Ông đã ghi lại những cái tên và tính nết của một số thác trong số 73 cái thác có tên trên sông Đà về từ biên giới Việt Trung tới thác Bờ (Hòa Bình): "Cách biên giới TQ phía Vân Nam khoảng mười cây số là thác kẻnh mỏ trên". Rồi đến thác La Sa, Hát Vá, Mằn hi, Mằn Lay. Rồi thác Hát Nhạt, Mằn thẳm, Hát No Héo, Kẻng mỏ dưới. Rồi đến Hát Lai ở trên thị xã Lai Châu (Mường Lay) độ 9km. Thuộc thủy phận Sơn La là các thác: Hát pi, hát soong pút, hát soong mon, hát pố, hát kếnh, hát chan, hát moong, hát tiếu; qua hát tiếu (tiếng Thái chữ hát = thác) "qua hát tiếu, rải chiếu mà nằm" coi như về cơ bản đã qua những chỗ nguy hiểm. Từ Vạn Yên tới Hòa Bình lại xuất hiện một số thác tuy có bớt hùng dữ hơn ở phía trên Lai Châu, Sơn La...đó là những "ga" nước trên sông Đà: Thác Ẻn, Thác Giăng, Bãi chuối, Mó sách, Bãi lời, Bãi lành, mó tôm, mó nàng, Nánh kẹp, Quai chuông, Tà phù, Bãi nai, Ba hòn gươm, phố khủa, gềnh đồng, suối bạc, ổ gà, bái nhạp, cánh cuốn, mèo quen, hang miếng, quần cóc, suối trong, bãi ban, riềm, thác rút, thác mẹ, bãi thằng rồ, mó tuần, suối hoa, hót gió, thác Bờ... Sau khi các đập thủy điện hoàn thành, tất cả các gềnh thác được nhấn chìm xuống đáy hồ sông Đà mênh mông chia 3 khúc: hồ Hòa Bình (từ thác bờ - Hòa Bình tớ tạ bú - Sơn La) rồi từ đập Pả Vinh - Ít ong (Mường La) tới Nậm nhứn Mường Nhé - Mường Tè - Lai Châu... Từ thời Lê, trong "kiến văn Tiểu Lục".Bảng nhản Lê Qúy Đôn (1723 - 1872) đã viết: "Thác Bờ ở địa phận Động Dĩ Lý và Hào Tráng thuộc Mộc Châu",như 1 ngọn núi đứng sừng sững giữa dòng là sông Đà, đá lớn lởm chởm, hàng năm cứ đến ngày 8 - 4 từng đàn cá ngược dòng nước bơi lên, chỉ có vài con cá chép khỏe là vượt được thác bờ (cá vượt vũ môn). Sách "Giao Châu ký" của Tăng Cổn (cuối thế kỷ 9) nhà Đường đô hộ Giao Châu (Tiết độ sứ) - có ghi về sông Đà "có Long Môn", nước sâu trăm tầm, cá lớn vượt lên được chỗ này sẽ hóa rồng. Trong sách "Sơn đường tứ khảo" gồm 228 quyển và bổ di 12 quyển ... Bành Đại Dực (nhà Minh) biên soạn có chép "sông Long môn ở huyện Mông (Yên Lập - Phú Thọ) phủ Gia Hưng, nước An Nam phát nguyện từ Châu Minh Viễn (Vân Nam), nước sông chảy đến đây, 2 bên bờ cao vót, hiểm trở, tảng đá lớn chắn giữa sông chia làm 3 dòng, sức nước vọt lên cao đến vài trượng, nghe ầm ầm như sấm, thuyền đến đây phải kéo lên bờ mới qua được". Sườn núi động Hào Tráng ở về phía bờ trái, có khắc 2 bài thơ (ngự thơ) của vua Lê Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn: Lê Quý Đôn dịch: "Gập gềnh đường hiểm chẳng e xa,Cử nhân, thượng thư Phạm Thuận Duật (1825 - 1885) năm 1855 làm tri châu Tuần giáo (lúc ấy thuộc Sơn La, tỉnh Hưng Hóa trong sách "Hưng Hóa ký lược" có chép). "Châu Đà Bắc ở xã Hào Tráng có bến Vạn Bờ tức sông Long Môn, cùng gọi là "đê long thủy". Tục truyền rằng đây là nơi "cá vượt vũ môn" hóa Rồng. Hai bên đá chốc đứng, chặn ngang cửa sông, ở giữa có một chỗ đá bị đục thủy (do nước xói mòn) gọi là Ao Vua, đó là nơi vua Lê Thái Tổ đề thơ (1429). Theo tác giả Anh Đức trong bài "xuôi dòng Đà giang trước lúc ngăn sông", tạp chí Suối Reo - Sơn La 5/2004 thì: "Từ thị xã Lai Châu cũ (Mường Lay) muốn xuôi xuống Quỳnh Nhai, ít nhất phải ngồi thuyền trên 200km, vượt qua trên 10 thác hung dữ với những cái tên hãi hùng như thác Ba Bố, ghềnh Ba Cô, thác Bà Đái, hòn Chông, ghềnh chém sóng... thử thách đầu tiên là thác Ba Bố mùa lũ. Tuy các dải đá ngầm có bớt nguy hiểm nhưng những con sóng lại cực lớn, dập từng cơn táp mạnh vào mạn thuyền, con thuyền liên tục xô nghiêng chao đảo. Người chưa quen đi sông nước bao giờ thì lúc đó coi mặc cho số phận, còn những người từng trải thì thêm 1 lần trải nghiệm. Qua hết nghềnh thác, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đi từ sáng tới hơn 2 giờ chiều đến được bản Huổi Ca, xã Nậm Mạ, huyện Sìn Hồ (Lai Châu). Rồi tiếp tục xuôi qua: Nậm Lốt, Pờ răng ky của đồng bào Dao, xã Nậm Hăn (Sìn Hồ), rồi tới Pắc Phạ, Pắc Na của đồng bào Hà Nhì, Thái trắng xã Tủa Thàng (Tủa chùa)... Vào đất Sơn La là bản cũ xã Cà Nang (Quỳnh Nhai) của đồng bào La Há hiện dưới cánh rừng ven suối. Qua huyện lỵ Quỳnh Nhai: Thuyền ghé qua các bến Pá Uôn (nay có cầu), Chiếng Bằng, Văn Pán, Nậm Giôn, Nậm Mu, Liệp Tè... Thác Pá Mu hung dữ mùa cạn, khi nước dâng thì hiền lành là bến đò đưa khách qua sông. Tại Pá Vinh - nơi xây Thủy Điện Sơn La có cây cầu cứng qua sông để thi công... Sau 5 ngày lênh đênh sóng nước, thuyền cập bến Tạ Bú an toàn.!.!. |
|
|
( Còn tiếp ) |
MỤC LỤC
|
||
|
Bản quê yêu dấu | |
|
Cơm Bản (Văn) | |
|
Nhớ Cơm Bản (thơ) | |
|
Canh Bon (thơ) | |
|
Ngủ Bản | |
|
Sơn La xưa | |
|
Sông Chó | |
|
Đám cưới Thái | |
|
Cầu vào Bản | |
|
Tiếng mõ trâu (thơ) | |
|
Núi Mường Hung - Dòng sông Mã | |
|
Bóng núi (thơ) | |
|
Nhớ Mường Hung (thơ) | |
|
Xuân biên cương | |
|
Chiều bản nhỏ (thơ) | |
|
Tắm ở bản | |
|
Lễ Tằng Cẩu | |
|
Tục đẻ ngồi | |
|
Nhà sàn bếp lửa (thơ) | |
|
Sông Đà hùng vĩ | |
|
Bến Tạ Bú (thơ) | |
|
Cây đào Tô Hiệu - Ai trồng? | |
|
Nhà sàn Thái | |
|
Gái Thái | |
|
Pí pặp (thơ) | |
|
Tên một số món ăn | |
|
Lẩu xá | |
|
Đường lên Tây Bắc | |
|
Cây Mắc Chai | |
|
Hoa Ban | |
|
Lịch sử nguồn gốc Thái | |
|
Mường trời, Mường người | |
|
Xửa cỏm, Váy Thái khăn Piêu | |
|
Quắm tố Mướng | |
|
Lời ăn tiếng nói | |
|
Táy Pú xấc | |
|
Thiết chế xã hội Thái | |
|
Khu tự trị Thái Mèo | |
|
Luật tục Thái | |
|
Quan chức và trí thức | |
|
Tang lễ Thái | |
|
Cổ tích | |
|
Đèo Pha Đin | |
|
Suối mó nước nóng | |
|
Lễ hội Lung ta | |
|
Du lịch Mộc Châu | |
|
Người bắn Hổ | |
|
Câu chuyện săn Voi | |
|
Xòe Thái | |
|
Nhạc Khí Thái | |
|
Thơ Ca Thái |