Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] [ Trangchủ ]
___ Đặng Tiến |
Nhà
văn Nguyễn Đình Thi qua đời tại Hà nội chiều ngày 18/4/2003,
hưởng thọ 79 tuổi.
Anh là một khuôn mặt quan trọng, đãê gắn liền tài năng và tên tuổi mình vào lịch sử văn học đất nước, từ những cuộc tranh đấu giành chủ quyền, đến hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Tùy giai đoạn lịch sử và theo tuổi đời, Nguyễn đình Thi đã chứng tỏ tài hoa và tài năng qua nhiều bộ môn sáng tác : nhạc, thơ, tùy bút, bút ký, lý luận, truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch. Đồng thời anh đảm nhiệm thường xuyên nhiều trách vụ chính trị. Ủy viên chấp hành Hội Văn Nghệ Việt Nam từ 1948, anh làm Tổng thư ký Hội Nhà Văn hơn ba mươi năm liền (1958-1989) rồi làm Chủ tịch Ủy Ban Liên Hiệp các hội Văn Học, Nghệ Thuật Việt Nam. Nguyễn đình Thi là nhân vật quyền chức, chức rõ ràng là nhiều, quyền đến đâu thì chúng tôi không rõ. Có khi thừa nhiều quyền, mà lại thiếu cái quyền thực thi đôi điều tâm huyết. Việc chính của nhà văn là làm văn, chứ không phải làm quan. Con thuyền chức tước Nguyễn đình Thi, suốt nửa thế kỷ thuận buồm, nhưng những trước tác tâm đắc của anh chưa bao giờ một lèo xuôi gió. Nguyễn đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên Cứu Quốc, 1943 tham gia Văn Hóa Cứu Quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại Hội Tân Trào, vào Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc Hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường Trực Quốc Hội, khóa I. Từ 1942, anh đã viết hàng loạt sách triết học. Triết học nhập môn, Siêu hình học, Triết học Aristote, Descartes, Kant, Nietzsche, Darwin, Einstein … trong khi giới văn nghệ Việt Nam thời ấy không mấy quan tâm đến triết học, ví dụ Xuân Diệu, Huy Cận, Hoàng Cầm, Vũ Ngọc Phan. Các lý thuyết gia như Đặng Thái Mai, Hoài Thanh cũng không mấy lưu tâm đến các khái niệm trừu tượng. Do đó, tư tưởng Nguyễn đình Thi có những nền nếp và đường nét riêng. Thời kỳ này anh sáng tác nhạc, nổi tiếng nhất là bài Diệt Phát Xít, làm đua với Văn Cao, và anh làm xong trước bài Chiến Sĩ Việt Nam, sau đó là Bài Hát Người Hà Nội, về mặt trận Hà Nội đầu 1947. Thời chống Pháp, anh tham dự hầu hết các chiến dịch lớn, Tây Bắc 1948, Biên Giới 1949, Trung Du 1951, Hòa Bình 1952. Ở mặt trận Điện Biên 1954, anh làm chính trị viên phó Tiểu Đoàn, đánh lên đồi A1, sau đó làm công tác tù binh. Từ 1955, anh về làm việc tại Hội Văn Nghệ Việt Nam tại Hà Nội, làm Tổng Thư ký từ 1956, đúng vào thời kỳ Nhân văn giai phẩm, bị tai tiếng kể từ đó. Hội Văn Nghệ từ 1957 trở thành Hội Nhà Văn, Nguyễn đình Thi tiếp tục làm Tổng thư ký trong ba thập kỷ , đến 1989. |
Vốn hiểu
biết sâu rộng, cảm quan nghệ thuật sắc bén, tài hoa về
nhiều mặt, Nguyễn đình Thi còn có một kiến thức và ý
thức chính trị vững chãi. Sức khỏe dồi dào, anh là người
xông pha và xông xáo, ham suy nghĩ, học hỏi và lao động nghệ
thuật cật lực. Anh đủ các đức tính để hoàn tất một
sự nghiệp văn hóa lớn, trong một xã hội bình thường. Nhưng
hoàn cảnh lịch sử đã đòi hỏi anh phải phân tán tài năng
và đặt các tiêu chuẩn xã hội, chính trị lên trên quan niệm
thẩm mỹ. Sau đó là công tác hành chánh, quản lý một mặt
chiếm thì giờ, mặt khác ràng buộc khả năng nghệ thuật.
Anh đánh cuộc và phải trả giá. Trả giá để sống, sống
để viết, viết chừng mực nào đó theo ý mình.
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nhất Linh, Vũ Hoàng Chương đều phải trả giá. Đắt rẻ thế nào, là số phận của tác phẩm về sau. Nguyễn đình Thi thường thường là người đi trước. Chưa dám nói là người dẫn đường, cũng phải nhận anh là người " nhận đường " với số phận chênh vênh của nó. Anh đi trước trong những phong trào, thể loại, chủ đề, rung cảm. Ví dụ về thơ. Cuộc cánh mạng tháng 8/1945 chấm dứt phong trào Thơ Mới và tạo điều kiện cho một cách tân trong thi ca, mà Nhớ Máu cuả Trần Mai Ninh, Đèo Cả của Hữu Loan, Ngoại Ô Mùa Đông 46 của Văn Cao là những ví dụ. Nhưng sau đó, các Hội Nghị Văn Nghệ 1948 và nhất là 1949 tại Việt Bắc đã dập tắt những ngọn lửa cách tân, nhân danh các tiêu chuẩn dân tộc, khoa học và đại chúng - nhất là đại chúng. Và cái bung
xung cho lời chỉ trích là thơ Nguyễn đình Thi, mà Xuân Diệu
chê là đầu Ngô mình Sở, Lưu Trọng Lư đòi "
tống cổ ra khỏi nền văn học mới, nền văn học kháng chiến
và cách mạng " (1).
Nhưng nặng nề, dứt khoát và thẩm quyền hơn ai hết là Tố
Hữu – mặc dù và sau khi Nguyễn đình Thi đã nhận kiểm
điểm : " Nghe anh Thi tự phê bình
thơ anh, anh chị em nghĩ : tại sao biết mình như vậy, mà cứ
làm như vậy …
Như vậy
là tàn đời Nguyễn đình Thi.
|
Về văn
xuôi, Nguyễn đình Thi cũng là người đi trước, trong hai chủ
đề chiến tranh và cách mạng. Ngày nay, người ta đã ca ngợi
những tác phẩm sau thời đổi mới, 1986 nói lên những mất
mát, những thương tích của chiến tranh.
Nhưng từ
thời chống Pháp, Nguyễn đình Thi và Bùi Hiển đã đề cập
đến chủ đề này, và đã từng bị chê là bi quan, chủ bại.
Do đó, những truyện ngắn viết rải rác từ 1948 đến 1954,
mãi đến 1957 mới được xuất bản thành tập Bên
Bờ Sông Lô. Chu Nga, không phải
là ngòi bút giáo điều đã tự hỏi : trong
những truyện ngắn này của anh phảng phất một nỗi buồn
man mác, khó tả làm cho người đọc không thể không suy nghĩ
về những hậu quả đau thương của chiến tranh. Tất nhiên
điều đó cũng là sự thực thôi, song có nên nhấn mạnh vào
khía cạnh đó ? (4)
Ngược lại, tiểu thuyết Xung Kích
phấn
khởi, sôi nổi hơn, được in từ 1951 và được ngay Giải
Thưởng Văn Nghệ.
Trong đề tài chiến tranh, Vào Lửa, 1966, là tác phẩm đầu tiên về cuộc kháng chiến chống Mỹ trên miền Bắc, đồng thời cũng là tác phẩm đầu tiên nêu lên những va chạm giữa hai thế hệ, già và trẻ, chống Pháp và chống Mỹ, chủ đề sẽ được phát triển về sau trong Mẫn và Tôi, 1973, của Phan Tứ, hay Dấu Chân Người Lính 1972 của Nguyễn Minh Châu, Mặt Trận Trên Cao 1967 là tiểu thuyết đầu tiên nói về binh chủng không quân, về chiến tranh kỹ thuật, một đề tài hoàn toàn mới mà Hữu Mai sẽ khai thác triệt để hơn trong hai tập Vùng Trời 1971-1974. Văn chương về chiến tranh Việt Nam thì nhiều, nhưng tác phẩm của Nguyễn đình Thi đã vạch lại hành trình người lính bộ đội Việt Nam, từ thưở Chân không giầy đạp nát đồn Tây (1950) đến khi sử dụng tên lửa, ra đa. Đồng thời anh cũng ghi lại tâm lý, tâm tư, hoài vọng của người lính thuộc nhiều thế hệ, hoàn cảnh, trong ba mươi năm cầm súng. Trong đề tài cách mạng, hai tập Vỡ Bờ I, 1962 và Vỡ Bờ II, 1970, là tác phẩm quy mô đầu tiên dựng lên toàn cảnh cuộc vận động Cách Mạng 1945 – đề tài mà anh đã ấp ủ từ 1948, ước mơ học tập được nghệ thuật trong Chiến Tranh và Hòa Bình của Tolstoi. Anh đã dày công lao động trong hơn mười năm – thời gian này anh đã tranh thủ viết Vào Lửa và Mặt Trận Trên Cao để … dưỡng sức. Hai tập Vỡ Bờ là bức tranh hoành tráng về cuộc tổng khởi nghĩa đi từ mặt trận Việt Minh kháng Nhật chống Pháp đến Cách Mạng tháng 8/1945, từ khu mỏ than Đông Triều, qua thôn xóm ven sông Hồng đến hè phố Hà Nội, tầng tầng lớp lớp quần chúng đủ mọi gia cấp, ào ào " tức nước vỡ bờ, nao nức hướng về cách mạng. Vỡ Bờ là trước tác tâm huyết mà Nguyễn đình Thi ấp ủ với nhiều kỳ vọng và trau chuốt rất công phu, nhưng đã không được tiếp đón như anh mong ước. Trái lại đã bị phê phán gay gắt. Ví dụ bài Phong Lê trên Tạp Chí Văn Học, 1971, đã khiến anh nổi đóa, trả lời đại khái : tôi là người buôn ngựa, các anh là kẻ lái trâu, lại đi hỏi sao trâu tôi không có sừng. Về sau Phan Cự Đệ đã phê phán ôn hòa, chừng mực hơn : " Nguyễn đình Thi nhìn một số nhân vật dưới góc độ của chủ nghĩa nhân đạo (ít nhiều mang màu sắc tiểu tư sản) của những vấn đề lương tâm, danh dự, nhân phẩm, đạo đức chung chung nhiều hơn là dưới ánh sáng của quan điểm giai cấp công nhân… Nguyễn đình Thi nhạy bén với những vấn đề của đất nước, dân tộc hơn là những vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp " (5). Một cách nói rằng : anh là nhà văn giỏi, nhưng là một người cộng sản tồi. Nếu quả đúng như thế thì may cho anh Thi, may hơn mệnh đề ngược lại. Phan Cự Đệ là bậc giáo điều, và là bậc thầy trong nghệ thuật giáo điều : suốt 30 trang bình luận về Nguyễn đình Thi lời lẽ ôn tồn, đằm thắm, nhưng tựu trung chỉ khai triển quan điểm của Tố Hữu năm 1964, đã trích dẫn ở đoạn trên. |
Cuối cùng,
về kịch, Nguyễn đình Thi cũng lại là người đi trước.
Trong thể loại này, trước tác Nguyễn đình Thi gian nan hơn
cả, không phải vì anh đưa tư tưởng đi xa hơn so với thơ
và truyện. Nhưng vì kịch có một quần chúng đông đảo quy
tụ cùng một lúc, khác với thơ và truyện mà người ta có
thể trùm chăn đọc một mình. Thơ trường phái Nguyễn đình
Thi khó có nhiều độc giả, mà độc giả phái ấy cũng khó
bề là hậu thuẫn chính trị. Những độc giả thơ có khả
năng làm " gió hôm nay là giông bão ngày mai " thì đã được
rèn luyện trong lò Tố Hữu.
Do đó kịch bản Con nai Đen, 1962 bị phê phán và ngăn chặn từ trong trứng nước. Sau đó, Nguyễn đình Thi viết : Hoa và Ngần, 1974 ; Giấc Mơ, kịch thơ, 1977 ; Rừng Trúc 1978 ; Nguyễn Trãi ở Đông Quan, 1979 ; Tiếng Sóng, 1980 ; và bốn vở kịch ngắn khoảng 20 trang : Người Đàn Bà Hóa Đá, 1980 ; Cái Bóng Trên Tường, 1982 ; Trương Chi, 1983 ; Hòn Cuội, 1986. Vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan, sáng tác cho kỷ niệm 400 năm Nguyễn Trãi, được trình diễn mấy đêm gì đó, rồi bị cấm, bị phê phán nghiệt ngã, là đã mỉa mai chế độ, cho rằng trí thức là tù nhân của chế độ. Tôi chưa được xem trên sâu khấu, nhưng anh Nguyễn đình Nghi đạo diễn đã kể lại niềm hào hứng khi dàn dựng vở kịch, mang nhiều truyền thống sân khấu cổ truyền lẫn tính cách hiện đại, và anh dựng tiếp Rừng Trúc trước khi mất. Trong kỷ yếu Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại, 1997, của Hội Nhà Văn – mà Nguyễn đình Thi đã trấn nhậm hơn 30 năm – ở thư mục Nguyễn đình Thi, trang 630, có đầy đủ tác phẩm theo trật tự thời gian, chỉ thiếu có Nguyễn Trãi Ở Đông Quan. Bi kịch Nguyễn Trãi là thân phận của một thế hệ trí thức Việt Nam, trong đó có nghịch cảnh và nghịch lý Nguyễn đình Thi. Những người dù thông cảm, hiểu rằng anh phải thỏa hiệp, cũng trách anh thỏa hiệp quá lâu. Không ai trách Thúy Kiều bán mình, nhưng trong 15 năm trôi dạt, Kiều đã nhiều lần phản kháng, còn anh, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, không nghe anh nói năng gì trước những phi lý, bất công, oan trái. Không lẽ anh chỉ biết duyên mình biết phận mình thế thôi ? |
Nguyễn đình
Thi là người tài, ai cũng biết, và tôi rất phục tài anh.
Năm 1967, anh viết bài chào mừng đại hội 4 các nhà văn Liên
Xô, là một loại văn ước lệ, chỉ cần làm chiếu lệ mà
anh đã kể tâm tình :
" Ở miền rừng núi chúng tôi, có một giống chim gọi là từ quy. Các ông bà già bảo rằng có đôi người yêu ngày xưa bị kẻ gian ác ngăn cấm không lấy được nhau, đã hóa thành giống chim ấy. Cho nên đến tận bây giờ, cứ đêm đêm người ta nghe thấy những con chim từ quy gọi nhau từng đôi, một con ở đầu núi này, một con ở đầu núi khác, suốt đêm đôi chim tìm gọi nhau cho đến sáng thì mới gặp nhau. Tôi nghĩ rằng các dân tộc từ bao thế kỷ, cũng đã mò mẫm đi tìm nhau như thế. Và những tác phẩm của các nhà văn thơ lớn ở thời trước cũng khác nào những tiếng gọi tìm nhau của các dân tộc còn bị ngăn cách, chia rẽ trong bóng đêm dày. Chính Cách Mạng tháng Mười là buổi bình minh làm cho các dân tộc nhìn thấy nhau và gặp được nhau "(6). Anh ngụy biện. Chim từ quy thì quan hệ gì đến văn học, và giao lưu văn học thì cần gì đến Cách Mạng tháng nọ tháng kia. Rõ là ngụy biện, thậm chí là ngụy tín. Nhưng tài quá : một là đúng đường lối " vô sản quốc tế ". Hai là đề cao văn học Việt Nam và các dân tộc nhược tiểu ngang tầm với các nền văn học bề thế hơn. Ba là anh mượn diễn đàn quốc tế để hồi âm một tiếng chim từ quy nghe được từ núi rừng Tây Bắc, suốt đời thao thức trong hồn anh. Lòng ta vẫn ở trên Tây BắcĐôi chim từ quy là biểu tượng cho tình yêu xa cách – chủ đề chính yếu trong toàn bộ thơ anh : Anh đứng đây thầm gọi tên emCó một lần, không rõ vì lý do gì, anh bảo rằng tôi hiểu thơ anh. Không biết anh nói thật hay nói đùa, cho vừa lòng tôi. Nhưng anh đã nói và tôi đã nghe. Tưởng nợ
nhau một lời nói. Hóa ra nợ nhau một tiếng từ quy.
"
Người bạn thơ phương trời xa "
|
(1) Cách mạng, Kháng chiến
và đời sống văn học, Nxb Tác Phẩm Mới, tr. 206, 1985 Hà
Nội
(2) Tố Hữu, Xây dựng một nền văn nghệ lớn, Nxb Văn Học, tr. 46, 1973, Hà Nội (3) Tố Hữu, sđd, tr. 356 (4) Tác gia văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa Học Xã Hội, tr. 160, 1977 Hà Nội (5) Phan Cự Ðệ và Hà Minh Ðức, Nhà văn Việt Nam, Tập I, Nxb Ðại Học và Trung Học chuyên nghiệp, tr. 735, 1979 Hà Nội (6) Tạp chí Văn Học, số 11, 1967, tr. 74, Hà Nội |