Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 114. Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì - 114. To Be Cultivated and Not to Be Cultivated »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 114. Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì - 114. To Be Cultivated and Not to Be Cultivated

Donate

Sevitabba-asevitabba sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

114. Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì

114. To Be Cultivated and Not to Be Cultivated

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. There he addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus.” — “Venerable sir,” they replied. The Blessed One said this:
"Này các Tỷ-kheo". -- "Bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: -- "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông pháp môn về nên hành trì, không nên hành trì. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng" -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. “Bhikkhus, I shall teach you a discourse on what should be cultivated and what should not be cultivated. Listen and attend closely to what I shall say.” — “Yes, venerable sir,” the bhikkhus replied. The Blessed One said this:
(Lời giảng đầu tiên)
(FIRST EXPOSITION)
-- Này các Tỷ-kheo, Ta nói thân hành có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa thân hành". Này các Tỷ-kheo, Ta nói khẩu hành cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa khẩu hành". Này các Tỷ-kheo, Ta nói ý hành cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa ý hành". Này các Tỷ-kheo, Ta nói tâm sanh cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa tâm sanh". Này các Tỷ-kheo, Ta nói tưởng đắc cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa tưởng đắc". Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, Ta nói cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa kiến đắc (ditthipatilabha)". Ngã tánh đắc, này các Tỷ-kheo, Ta nói cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa ngã tánh đắc".
3. “Bhikkhus,1069 bodily conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And bodily conduct is either the one or the other.1070 Verbal conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And verbal conduct is either the one or the other. Mental conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And mental conduct is either the one or the other. Inclination of mind is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And inclination of mind is either the one or the other. [46] The acquisition of perception is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of perception is either the one or the other. The acquisition of view is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of view is either the one or the other. The acquisition of individuality is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of individuality is either the one or the other.”
(Giảng rộng)
(FIRST ELABORATION)
Ðược nghe nói vậy, Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
4. When this was said, the venerable Sāriputta said to the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, lời nói này được Thế Tôn nói lên vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau:
“Venerable sir, I understand the detailed meaning of the Blessed One’s utterance, which he has spoken in brief without expounding the detailed meaning, to be thus:
Thân hành, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa thân hành". Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
5. “‘Bhikkhus, bodily conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And bodily conduct is either the one or the other.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Bạch Thế Tôn nếu một thân hành nào khi hành trì, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm, thân hành như vậy không nên hành trì. Bạch Thế Tôn, và một thân hành nào khi hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng, thân hành như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such bodily conduct as causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it should not be cultivated. But such bodily conduct as causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it should be cultivated.
Bạch Thế Tôn, thân hành gì khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm?
“And what kind of bodily conduct causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it?
Ở đây, bạch Thế Tôn, có người sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại, đả thương, tâm không từ bi đối với các loại hữu tình. Người này lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy.
Here someone kills living beings; he is murderous, bloody-handed, given to blows and violence, merciless to living beings. He takes what is not given; he takes by way of theft the wealth and property of others in the village or in the forest.
Người ấy sống tà hạnh trong các dục vọng, giao cấu các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa. Thân hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
He misconducts himself in sensual pleasures; he has intercourse with such women as are protected by their mother, father, mother and father, brother, sister, or relatives, who have a husband, who are protected by law, and even with those who are garlanded in token of betrothal. Such bodily conduct [47] causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it.
Bạch Thế Tôn, thân hành gì khi hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng?
“And what kind of bodily conduct causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it?
Ở đây, bạch Thế Tôn, có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Người ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho; bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy.
Here someone, abandoning the killing of living beings, abstains from killing living beings; with rod and weapon laid aside, gently and kindly, he abides compassionate to all living beings. Abandoning the taking of what is not given, he abstains from taking what is not given; he does not take by way of theft the wealth and property of others in the village or in the forest.
Người ấy từ bỏ sống tà hạnh trong các dục vọng, không giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa.
Abandoning misconduct in sensual pleasures, he abstains from misconduct in sensual pleasures; he does not have intercourse with such women as are protected by their mother, father, mother and father, brother, sister, or relatives, who have a husband, who are protected by law, or with those who are garlanded in token of betrothal.
Thân hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Such bodily conduct causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it.
Thân hành, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa thân hành". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Bhikkhus, bodily conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And bodily conduct is either the one or the other.’
Khẩu hành, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa khẩu hành". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
6. “‘Bhikkhus, verbal conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And verbal conduct is either the one or the other.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Bạch Thế Tôn, một khẩu hành nào khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm, khẩu hành như vậy không nên hành trì. Bạch Thế Tôn và một khẩu hành nào khi hành trì bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng, khẩu hành như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such verbal conduct as causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it should not be cultivated. But such verbal conduct as causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it should be cultivated.
Bạch Thế Tôn, khẩu hành gì khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiệp pháp thối giảm? Ở đây, bạch Thế Tôn, có người vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: "Này Người kia, hãy nói những gì Ông biết". Dầu cho người ấy không biết, người ấy nói: "Tôi biết"; dầu cho người ấy biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; hay dầu cho người ấy không thấy, người ấy nói: "Tôi thấy"; hay dầu cho người ấy thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy". Như vậy, lời nói của người ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì.
“And what kind of verbal conduct causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it? Here someone speaks falsehood; when summoned to a court, or to a meeting, [48] or to his relatives’ presence, or to his guild, or to the royal family’s presence, and questioned as a witness thus: ‘So, good man, tell what you know,’ not knowing, he says, ‘I know,’ or knowing, he says, ‘I do not know’; not seeing, he says, ‘I see,’ or seeing, he says, ‘I do not see’; in full awareness he speaks falsehood for his own ends, or for another’s ends, or for some trifling worldly end.
Và người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ hòa hợp, hay xúi dục những kẻ ly gián, ưa thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú phá hoại, nói những lời đưa đến phá hoại.
He speaks maliciously; he repeats elsewhere what he has heard here in order to divide [those people] from these, or he repeats to these people what he has heard elsewhere in order to divide [these people] from those; thus he is one who divides those who are united, a creator of divisions, who enjoys discord, rejoices in discord, delights in discord, a speaker of words that create discord.
Và người ấy là người nói lời thô ác. Bất cứ lời gì thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như vậy. Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích.
He speaks harshly; he utters such words as are rough, hard, hurtful to others, offensive to others, bordering on anger, unconducive to concentration. He is a gossip; he speaks at the wrong time, speaks what is not fact, speaks what is useless, speaks contrary to the Dhamma and the Discipline; at the wrong time he speaks such words as are worthless, unreasonable, immoderate, and unbeneficial.
Khẩu hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
Such verbal conduct causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it.
Bạch Thế Tôn, khẩu hành gì khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng? Ở đây, bạch Thế Tôn, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông biết". Nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết "; nếu không biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; hay nếu không thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy, người ấy nói: "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì.
“And what kind of verbal conduct causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it? Here someone, abandoning false speech, abstains from false speech; when summoned to a court, or to a meeting, or to his relatives’ presence, or to his guild, or to the royal family’s presence, and questioned as a witness thus: ‘So, good man, tell what you know,’ not knowing, he says, ‘I do not know,’ or knowing, he says, ‘I know’; not seeing, he says, ‘I do not see,’ or seeing, he says, ‘I see’; [49] he does not in full awareness speak falsehood for his own ends, or for another’s ends, or for some trifling worldly end.
Từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia; như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
Abandoning malicious speech, he abstains from malicious speech; he does not repeat elsewhere what he has heard here in order to divide [those people] from these, nor does he repeat to these people what he has heard elsewhere in order to divide [these people] from those; thus he is one who reunites those who are divided, a promoter of friendships, who enjoys concord, rejoices in concord, delights in concord, a speaker of words that promote concord.
Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác; như vậy, người ấy nói những lời nói nhu hòa, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người. Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm; người ấy nói đúng thời, nói những lời chơn thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Abandoning harsh speech, he abstains from harsh speech; he speaks such words as are gentle, pleasing to the ear, and loveable, as go to the heart, are courteous, desired by many, and agreeable to many. Abandoning gossip, he abstains from gossip; he speaks at the right time, speaks what is fact, speaks on what is good, speaks on the Dhamma and the Discipline; at the right time he speaks such words as are worth recording, reasonable, moderate, and beneficial.
Khẩu hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Such verbal conduct causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it.

Khẩu hành, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa khẩu hành". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.

“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Bhikkhus, verbal conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And verbal conduct is either the one or the other.’
Ý hành, này các Tỷ-kheo, Tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa khẩu hành". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
7. “‘Mental conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And mental conduct is either the one or the other.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Bạch Thế Tôn, một ý hành nào khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, khẩu hành như vậy không nên hành trì. Bạch Thế Tôn, và một ý hành nào khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, ý hành như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such mental conduct as causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it should not be cultivated. But such mental conduct as causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it should be cultivated.
Ý hành gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm? Ở đây, bạch Thế Tôn có người có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!" Lại có người sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: "Mong rằng những loài hữu hình này bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt hay bị làm hại, hay mong chúng không còn tồn tại".
“And what kind of mental conduct causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it? Here someone is covetous; he covets the wealth and property of others thus: ‘Oh, may what belongs to another be mine!’ Or he has a mind of ill will and intentions of hate [50] thus: ‘May these beings be slain and slaughtered, may they be cut off, perish, or be annihilated!’
Ý hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
Such mental conduct causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it.
Ý hành gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng?
“And what kind of mental conduct causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it?
Ở đây có người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác không trở thành của mình!" Lại có người không có sân tâm, không khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng: "Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không oán thù, không nhiễu loạn, được an lạc, lo nghĩ tự thân".
Here someone is not covetous; he does not covet the wealth and property of others thus: ‘Oh, may what belongs to another be mine!’ His mind is without ill will and he has intentions free from hate thus: ‘May these beings be free from enmity, affliction, and anxiety! May they look after themselves happily!’
Ý hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Such mental conduct causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it.
Ý hành, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa ý hành". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Bhikkhus, mental conduct is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And mental conduct is either the one or the other.’1071
Tâm sanh, này các Tỷ-kheo, tôi nói cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa tâm sanh". Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên?
8. “‘Inclination of mind is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And inclination of mind is either the one or the other.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Bạch Thế Tôn, nếu một tâm sanh nào khi hành trì, các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, tâm sanh như vậy không nên hành trì. Và một tâm sanh nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, tâm sanh như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such inclination of mind as causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it should not be cultivated. But such inclination of mind as causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it should be cultivated.
Tâm sanh gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm?
“And what kind of inclination of mind causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it?
Ở đây, bạch Thế Tôn, có người có tham dục, sống với tâm câu hữu với tham dục; người ấy sân hận và sống với tâm câu hữu với sân hận; người ấy có hại tâm và sống với tâm câu hữu với hại tâm.
Here someone is covetous and abides with his mind imbued with covetousness; he has ill will and abides with his mind imbued with ill will; he is cruel and abides with his mind imbued with cruelty.1072
Tâm sanh như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm.
Such inclination of mind causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it.
Tâm sanh gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng? Ở đây, bạch Thế Tôn, có người không có tham dục; sống với tâm không câu hữu với tham dục; người ấy không có sân hận và sống với tâm không câu hữu với sân hận; người ấy không có hại tâm và sống với tâm không câu hữu với hại tâm.
“And what kind of inclination of mind causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase [51] in one who cultivates it? Here someone is uncovetous and abides with his mind detached from covetousness; he is without ill will and abides with his mind detached from ill will; he is uncruel and abides with his mind detached from cruelty.
Tâm sanh như vậy, bạch Thế Tôn, nếu hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng.
Such inclination of mind causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it.
Tâm sanh, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa tâm sanh". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Bhikkhus, inclination of mind is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And inclination of mind is either the one or the other.’
Tưởng đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sư tương đối giữa tưởng đắc". Thế Tôn đã nói vậy. Và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên?
9. “‘The acquisition of perception is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of perception is either the one or the other.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Một tưởng đắc nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, tưởng đắc như vậy không nên hành trì. Và một tưởng đắc nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, tưởng đắc như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such acquisition of perception as causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it should not be cultivated. But such acquisition of perception as causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it should be cultivated.
Tưởng đắc gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm? Ở đây, bạch Thế Tôn, có người có tham dục sống với tưởng câu hữu với sân hận, người ấy có hại tâm và sống với tưởng câu hữu với hại tâm. Tưởng đắc như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm.
“And what kind of acquisition of perception causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it? Here someone is covetous and abides with his perception imbued with covetousness; he has ill will and abides with his perception imbued with ill will; he is cruel and abides with his perception imbued with cruelty. Such acquisition of perception causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it.
Tưởng đắc gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì, bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng? Ở đây, bạch Thế Tôn, có người không có tham dục, sống với tưởng không câu hữu với tham dục, người ấy không có sân hận và sống với tưởng không câu hữu với sân hận, người ấy không có hại tâm và sống với tưởng không câu hữu với hại tâm. Tưởng đắc như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng.
“And what kind of acquisition of perception causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it? Here someone is uncovetous and abides with his perception detached from covetousness; he is without ill will and abides with his perception detached from ill will; he is uncruel and abides with his perception detached from cruelty. Such acquisition of perception causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it.
Tưởng đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa tưởng đắc". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Bhikkhus, the acquisition of perception is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of perception is either the one or the other.’ [52]
Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì và không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa kiến đắc". Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên?
10. “‘The acquisition of view is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of view is either the one or the other.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Một kiến đắc nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, kiến đắc như vậy không nên hành trì. Và một kiến đắc nào khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, kiến đắc như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such acquisition of view as causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it should not be cultivated. But such acquisition of view as causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it should be cultivated.
Kiến đắc gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng; thiện pháp thối giảm? Ở đây, bạch Thế Tôn có người có (tà) kiến như sau: "Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có loại hóa sanh,
“And what kind of acquisition of view causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it? Here someone holds such a view as this: ‘There is nothing given, nothing offered, nothing sacrificed; no fruit or result of good and bad actions; no this world, no other world; no mother, no father; no beings who are reborn spontaneously;
ở đời không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình với thượng trí chứng tri, chứng đạt và an trú đời này, đời khác và truyền dạy lại". Kiến đắc như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì, các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
no good and virtuous recluses and brahmins in the world who have realised for themselves by direct knowledge and declare this world and the other world.’ Such acquisition of view causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it.
Kiến đắc gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng? Ở đây, bạch Thế Tôn, có người có (chánh) kiến như sau: "Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế tự, có quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh,
“And what kind of acquisition of view causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it? Here someone holds such a view as this: ‘There is what is given and what is offered and what is sacrificed; there is fruit and result of good and bad actions; there is this world and the other world; there is mother and father; there are beings who are reborn spontaneously;
ở đời có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình với thượng trí chứng tri, chứng đắc và an trú đời này, đời khác và truyền dạy lại". Kiến đắc như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
there are good and virtuous recluses and brahmins in the world who have realised for themselves by direct knowledge and declare this world and the other world.’ Such acquisition of view causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it.
Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa kiến đắc". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Bhikkhus, the acquisition of view is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of view is either the one or the other.’
Ngã tánh đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa ngã tánh đắc". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
11. “‘The acquisition of individuality is of two kinds, I say:1073 to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of individuality is either the one or the other.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Ngã tánh đắc nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, ngã tánh đắc như vậy không nên hành trì. Ngã tánh đắc nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, ngã tánh đắc như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, [53] such acquisition of individuality as causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it should not be cultivated. But such acquisition of individuality as causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it should be cultivated.
Ngã tánh đắc gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm? Ngã tánh đắc có hại, bạch Thế Tôn, vì sự không rốt ráo khi được sanh khởi, các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
“And what kind of acquisition of individuality causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it? When a person generates an acquisition of individuality that is subject to affliction, unwholesome states increase and wholesome states diminish in him, preventing him from reaching the consummation.1074
Ngã tánh đắc gì, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng? Ngã tánh đắc vô hại, bạch Thế Tôn, vì sự rốt ráo khi được sanh khởi, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
“And what kind of acquisition of individuality causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it? When a person generates an acquisition of individuality that is free from affliction, unwholesome states diminish and wholesome states increase in him, enabling him to reach the consummation.
Ngã tánh đắc, này các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa ngã tánh đắc". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Bhikkhus, the acquisition of individuality is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. And the acquisition of individuality is either the one or the other.’
Bạch Thế Tôn, lời nói mà được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi, con được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
12. “Venerable sir, I understand the detailed meaning of the Blessed One’s utterance, which he has spoken in brief without expounding the detailed meaning, to be thus.”
(Ðức Thế Tôn khen và tóm tắt)
(FIRST APPROVAL AND RECAPITULATION)
-- Lành thay, lành thay, này Sāriputta! Lành thay, này Sāriputta! Lời nói này được Ta nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
13. “Good, good, Sāriputta! It is good that you understand the detailed meaning of my utterance, which I spoke in brief without expounding the detailed meaning, to be thus.
Thân hành, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa thân hành". Ta đã nói như vậy và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên? Thân hành nào, này Sariputtta, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm, thân hành như vậy không nên hành trì. Và thân hành nào, này Sariputtta, khi hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, thiệp pháp tăng trưởng, thân hành như vậy nên hành trì.
14–20. [54, 55] (In these paragraphs the Buddha repeats verbatim §§5–11, with the substitution of “Sāriputta” for “venerable sir” and of “by me” for “by the Blessed One.”)
Thân hành gì, này Sāriputta, khi hành trì bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm? Ở đây, này Sāriputta, có người sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại hữu tình. Người này lấy của không cho; bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy.
Người ấy sống tà hạnh trong các dục vọng, giao cấu các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa. Thân hành như vậy, này Sāriputta, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
Thân hành gì, này Sāriputta, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng? Ở đây, này Sariputtta, có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Người ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho; bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy.
Người ấy từ bỏ sống theo tà hạnh trong các dục vọng, không giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa. Thân hành như vậy, này Sāriputta, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Thân hành, này các Tỷ-kheo, ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa thân hành". Ta đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Khẩu hành, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa khẩu hành". Ta đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên? Này Sāriputta, khẩu hành nào khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, khẩu hành như vậy không nên hành trì. Và khẩu hành nào, này Sāriputta, khi hành trì, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, khẩu hành như vậy nên hành trì.
Khẩu hành gì, này Sāriputta, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm? Ở đây, này Sāriputta, có người vọng ngữ đến chỗ tập hội...
Ý hành,... Tâm sanh,... Tưởng đắc,... Kiến đắc,... Ngã tánh đắc,...
Ngã tánh đắc, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa ngã tánh đắc", Ta đã nói như vậy, và do duyên như vậy lời nói ấy được nói lên.
Này Sāriputta, lời nói này được Ta nói một cách vắn tắt, cần phải hiểu một cách rộng rãi như vậy.
21. “Sāriputta, the detailed meaning of my utterance, which I spoke in brief, should be regarded thus.
(Lời giảng thứ hai)
(SECOND EXPOSITION)
Sắc do mắt nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
22. “Sāriputta, forms cognizable by the eye are of two kinds, I say: [56] to be cultivated and not to be cultivated.1075
Tiếng do tai nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
Sounds cognizable by the ear are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.
Hương do mũi nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
Odours cognizable by the nose are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.
Vị do lưỡi nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
Flavours cognizable by the tongue are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.
Xúc do thân nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
Tangibles cognizable by the body are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.
Pháp do ý nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
Mind-objects cognizable by the mind are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.”
(Giảng rộng)
(SECOND ELABORATION)
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
23. When this was said, the venerable Sāriputta said to the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, lời nói này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi, con được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau:
“Venerable sir, I understand the detailed meaning of the Blessed One’s utterance, which he has spoken in brief without expounding the detailed meaning, to be thus:
"Sắc do mắt nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
24. “‘Sāriputta, forms cognizable by the eye are of two kinds, I say: [56] to be cultivated and not to be cultivated.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Sắc nào do mắt nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, sắc do mắt nhận thức như vậy không nên hành trì. Sắc nào do mắt nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, sắc ấy do mắt nhận thức như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such forms cognizable by the eye as cause unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates them should not be cultivated. But such forms cognizable by the eye as cause unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates them should be cultivated.
"Sắc do mắt nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Sāriputta, forms cognizable by the eye are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.’
"Tiếng do tai nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
25. “‘Sounds cognizable by the ear are of two kinds, I say’…
Tiếng nào do tai nhận thức bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, tiếng do tai nhận thức như vậy không nên hành trì. Tiếng nào do tai nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, tiếng do tai nhận thức như vậy nên hành trì. "Tiếng do tai nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
"Hương do mũi nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
26. “‘Odours cognizable by the nose are of two kinds, I say’… [57]
Hương nào do mũi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, hương do mũi nhận thức như vậy không nên hành trì. Hương nào do mũi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, hương do mũi nhận thức như vậy nên hành trì."Hương do mũi nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
"Vị do lưỡi nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
27. “‘Flavours cognizable by the tongue are of two kinds, I say’…
Vị nào do lưỡi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, vị do lưỡi nhận thức như vậy không nên hành trì. Vị nào do lưỡi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, vị do lưỡi nhận thức như vậy nên hành trì. "Vị do lưỡi nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
"Xúc do thân nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
28. “‘Tangibles cognizable by the body are of two kinds, I say’…
Xúc nào do thân nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, xúc do thân nhận thức như vậy không nên hành trì. Xúc nào do thân nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, xúc do thân nhận thức như vậy nên hành trì. "Xúc do thân nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
"Pháp do ý nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên?
29. “‘Mind-objects cognizable by the mind are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Pháp nào do ý nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, pháp do ý nhận thức như vậy không nên hành trì. Pháp nào do ý nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, pháp do ý nhận thức như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such mind-objects cognizable by the mind as cause unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates them should not be cultivated. [58] But such mind-objects cognizable by the mind as cause unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates them should be cultivated.
Pháp do ý nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì"." Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Mind-objects cognizable by the mind are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.’
Bạch Thế Tôn, lời nói này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi, con được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
30. “Venerable sir, I understand the detailed meaning of the Blessed One’s utterance, which he has spoken in brief without expounding the detailed meaning, to be thus.”
(Ðức Thế Tôn khen và tóm tắt)
(SECOND APPROVAL AND RECAPITULATION)
-- Lành thay, lành thay, này Sāriputta! Lành thay, này Sāriputta! Lời nói này được Ta nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
31. “Good, good, Sāriputta! It is good that you understand the detailed meaning of my utterance, which I spoke in brief without expounding the detailed meaning, to be thus.
Sắc do mắt nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Lời nói như vậy được Ta nói lên. Và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên?...
32–37. (In these paragraphs the Buddha repeats verbatim §§24–29, with the necessary substitutions.)
Tiếng do tai nhận thức,... Hương do mũi nhận thức,... Vị do lưỡi nhận thức,... Xúc do thân nhận thức,... Pháp do ý nhận thức, ...
Pháp do ý nhận thức, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Lời nói như vậy được Ta nói lên và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Này Sāriputta, lời nói này được Ta nói lên một cách vắn tắt, ý nghĩa lời nói ấy cần được hiểu một cách rộng rãi như vậy.
38. “Sāriputta, the detailed meaning of my utterance, which I spoke in brief, should be regarded thus.
(Lời giảng thứ ba)
(THIRD EXPOSITION)
Y, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Ðồ ăn khất thực, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Sàng tọa, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
39. “Sāriputta, robes are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. Almsfood is of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. Resting places are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.
Làng, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Thị trấn, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Ðô thị, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Quốc độ, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
Villages are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. Towns are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. Cities are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated. Districts are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.
Người (puggala), này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".
Persons are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.” [59]
(Giảng rộng)
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
40. When this was said, the venerable Sāriputta said to the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, lời nói này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi, con được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau:
“Venerable sir, I understand the detailed meaning of the Blessed One’s utterance, which he has spoken in brief without expounding the detailed meaning, to be thus:
"Y, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".' Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên?
41. “‘Sāriputta, robes are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
Y nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì, các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, y như vậy không nên hành trì. Y nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, y như vậy nên hành trì.
“Venerable sir, such robes as cause unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates them should not be cultivated. But such robes as cause unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates them should be cultivated.
"Y, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì".' Thế Tôn đã nói lên như vậy. Và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Sāriputta, robes are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.’
"Ðồ ăn khất thực, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
42. “‘Almsfood is of two kinds, I say’…
"Sàng tọa, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
43. “‘Resting places are of two kinds, I say’…
"Làng, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
44. “‘Villages are of two kinds, I say’…
"Thị trấn, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
45. “‘Towns are of two kinds, I say’…
"Ðô thị, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
46. “‘Cities are of two kinds, I say’…
"Quốc độ, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
47. “‘Districts are of two kinds, I say’…
"Người, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
48. “‘Persons are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.’ So it was said by the Blessed One. And with reference to what was this said?
“Venerable sir, [association with] such persons as causes unwholesome states to increase and wholesome states to diminish in one who cultivates it should not be cultivated. But [association with] such persons as causes unwholesome states to diminish and wholesome states to increase in one who cultivates it should be cultivated.
“So it was with reference to this that it was said by the Blessed One: ‘Persons are of two kinds, I say: to be cultivated and not to be cultivated.’
Bạch Thế Tôn, lời nói này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải thích rộng rãi, con đã hiểu một cách rộng rãi như vậy.
49. “Venerable sir, I understand the detailed meaning of the Blessed One’s utterance, which he has spoken in brief without expounding the detailed meaning, to be thus.”
(Ðức Thế Tôn khen và tóm tắt)
(THIRD APPROVAL AND RECAPITULATION)
-- Lành thay, lành thay, này Sāriputta! Lành thay, này Sāriputta! Lời nói này được Ta nói lên vắn tắt, không giải thích rộng rãi, Ông đã hiểu một cách rộng rãi như vậy.
50. “Good, good, Sāriputta! It is good that you understand the detailed meaning of my utterance, which I spoke in brief without expounding the detailed meaning, to be thus.
Y, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Ta đã nói lên như vậy. Và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên? Y nào, này Sāriputta, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, y như vậy không nên hành trì. Y nào, này Sāriputta, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, y như vậy nên hành trì. Y, này Sāriputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Ta đã nói lên như vậy. Do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
51–58. (In these paragraphs the Buddha repeats verbatim §§41–48 with the necessary substitutions.) [60]
Ðồ ăn khất thực, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Sàng tọa, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Làng, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Thị trấn, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Ðô thị, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Quốc độ, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Người, này Sāriputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Này Sāriputta, lời nói này được Ta nói vắn tắt, ý nghĩa lời nói ấy cần được hiểu một cách rộng rãi như vậy.
59. “Sāriputta, the detailed meaning of my utterance, which I spoke in brief, should be regarded thus.
(Kết luận)
(CONCLUSION)
Này Sāriputta, nếu tất cả những vị Sát đế lỵ, đối với lời nói này được Ta nói vắn tắt, có thể hiểu ý nghĩa lời nói ấy một cách rộng rãi như vậy, tất cả những vị ấy sẽ được hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài. Này Sāriputta, nếu tất cả những vị Bà-la-môn .. nếu tất cả những vị Vessa...
60. “Sāriputta, if all nobles understood thus the detailed meaning of my utterance, which I spoke in brief, it would lead to their welfare and happiness for a long time.1076 If all brahmins… all merchants… all workers understood thus the meaning of my utterance, which I spoke in brief, it would lead to their welfare and happiness for a long time.
Này Sāriputta, nếu tất cả những vị Thủ đà (Sudda), đối với lời nói này được Ta nói vắn tắt, có thể hiểu ý nghĩa lời nói ấy một cách rộng rãi như vậy, tất cả những vị ấy sẽ được hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài.
If the world with its gods, its Māras, and its Brahmās, this generation with its recluses and brahmins, its princes and its people, understood thus the detailed meaning of my utterance, which I spoke in brief, it would lead to the welfare and happiness of the world for a long time.” [61]
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Sāriputta hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. The venerable Sāriputta was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.





_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Gọi nắng xuân về


Phật pháp ứng dụng


Vào thiền


Kinh Duy-ma-cật (Hán-Việt)

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 52.15.71.146 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học