Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tu viện ông Anāthapiṇḍika. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo" -"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
1. THUS HAVE I HEARD.935 On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. There he addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus.” — “Venerable sir,” they replied. The Blessed One said this:
Luận bàn về tương lai
(SPECULATIONS ABOUT THE FUTURE)
-- Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về tương lai, thảo luận về tương lai, y cứ vào tương lai, tuyên bố nhiều quan điểm sai khác.
2. “Bhikkhus, there are some recluses and brahmins who speculate about the future and hold views about the future, who assert various doctrinal propositions concerning the future.
Ở đây, một số tuyên bố: "Sau khi chết, tự ngã không bệnh, có tưởng".
(I) Some assert thus: ‘The self is percipient and unimpaired after death.’
Ở đây, một số tuyên bố: "Sau khi chết, tự ngã không bệnh, không tưởng".
(II) Some assert thus: ‘The self is non-percipient and unimpaired after death.’
Ở đây một số tuyên bố: "Sau khi chết, tự ngã không bệnh, phi tưởng và phi phi tưởng".
(III) Some assert thus: ‘The self is neither percipient nor non-percipient and unimpaired after death.’
Hay họ chủ trương đoạn diệt hủy hoại, tiêu diệt của loài hữu tình hiện đang sanh tồn.
(IV) Or they describe the annihilation, destruction, and extermination of an existing being [at death].
Hay một số lại tuyên bố về hiện tại Niết-bàn.
(V) Or some assert Nibbāna here and now.936
Như vậy, họ chủ trương sau khi chết, tự ngã tồn tại không bệnh. Hay họ chủ trương đoạn diệt, hủy hoại, tiêu diệt của loài hữu tình hiện đang sanh tồn. Hay một số lại tuyên bố hiện tại Niết-bàn. Như vậy, những chủ thuyết này, sau khi thành năm trở lại thành ba, sau khi thành ba, trở lại thành năm. Ðây là sự tổng thuyết năm và ba.
“Thus (a) they either describe an existing self that is unimpaired after death; (b) or they describe the annihilation, destruction, and extermination of an existing being [at death]; (c) or they assert Nibbāna here and now. Thus these [views] being five become three, and being three become five. This is the summary of the ‘five and three.’
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã có tưởng, không bệnh,
3. (I) “Therein, bhikkhus, those recluses and brahmins [229] who describe the self as percipient and unimpaired after death describe such a self, percipient and unimpaired after death, to be either:
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy hoặc chủ trương sau khi chết tự ngã có sắc, có tưởng, không bệnh;
material;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không có sắc, có tưởng, không bệnh;
or immaterial;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc và không sắc, có tưởng, không bệnh;
or both material and immaterial;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc và không không sắc, có tưởng, không bệnh;
or neither material nor immaterial;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương tự ngã hoặc nhất tưởng, có tưởng, không bệnh;
or percipient of unity;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc dị tưởng, có tưởng, không bệnh;
or percipient of diversity;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương tự ngã sau khi chết hoặc thiểu tưởng, có tưởng, không bệnh;
or percipient of the limited;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc vô lượng tưởng, có tưởng, không bệnh.
or percipient of the immeasurable.937
Nhưng có một số tuyên bố thức biến này (viññāṇakasiṇa) khi vượt qua khỏi (upātivattataṃ) trở thành vô lượng, bất động.
Or else, among those few who go beyond this, some make assertions about the consciousness-kasiṇa, immeasurable and imperturbable.938
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau:
4. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this thus:
"Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã có tưởng, không bệnh, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc, có tưởng, không bệnh;
‘Those good recluses and brahmins who describe the self as percipient and unimpaired after death describe such a self to be either material… or they describe it to be percipient of the immeasurable. Or else, [230] some make assertions about the base of nothingness, immeasurable and imperturbable;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không có sắc, có tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết tự ngã hoặc có sắc và không sắc, có tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết tự ngã hoặc không sắc và không không sắc, có tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc nhứt tưởng, có tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc dị tưởng, có tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc thiểu tưởng, có tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc vô lượng tưởng, có tưởng, không bệnh.
Hay Như Lai biết loại tưởng nào trong các loại tưởng ấy được xưng là thanh tịnh, tối thắng, đệ nhất, vô thượng, tức là sắc tưởng, tức là vô sắc tưởng, tức là nhứt tưởng, tức là dị tưởng. Nói rằng: "vô sở hữu", một số tuyên bố Vô sở hữu xứ là vô lượng, bất động.
[for them] “there is nothing” is declared to be the purest, supreme, best, and unsurpassed of those perceptions — whether perceptions of form or of the formless, of unity or diversity.939
Biết rằng cái này thuộc hữu vi, là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có sự đoạn diệt này, Như Lai thấy sự giải thoát khỏi pháp hữu vi và đã vượt khỏi pháp hữu vi".
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations.’ Having known ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.940
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà- la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã không tưởng, không bệnh;
5. (II) “Therein, bhikkhus, those recluses and brahmins who describe the self as non-percipient and unimpaired after death describe such a self, non-percipient and unimpaired after death, to be either:
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc không tưởng, không bệnh;
material;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, không tưởng, không bệnh;
or immaterial;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc không sắc, không tưởng, không bệnh.
or both material and immaterial;
Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết tự ngã hoặc cũng không sắc, không không sắc, không tưởng, không bệnh.
or neither material nor immaterial.941
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã có tưởng, vô bệnh, một số phỉ báng các vị ấy. Vì sao vậy? Họ nói rằng: "Tưởng là bệnh hoạn, tưởng là mụt nhọt, tưởng là mũi tên; đây là tịch tịnh, thù diệu tức là vô tưởng".
6. “Therein, bhikkhus, these criticise those recluses and brahmins who describe the self as percipient and unimpaired after death. Why is that? Because they say: ‘Perception is a disease, perception is a tumour, perception is a dart; this is peaceful, this is sublime, that is, non-perception.’
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: "Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã là không tưởng, không bệnh;
7. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this thus: ‘Those good recluses and brahmins who describe the self as non-percipient and unimpaired after death describe such a self, non-percipient and unimpaired after death,
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc, không tưởng, không bệnh;
Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, không tưởng, không bệnh;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc và không sắc, không tưởng, không bệnh;
to be either material…
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không có sắc, không không sắc, không tưởng, không bệnh".
or neither material nor immaterial.
Này các Tỷ-kheo, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài hành, ngoài thức, ta sẽ chủ trương sự lai, vãng, tử, sanh, tăng trưởng, tăng thịnh, hay tăng đại"; sự tình không có như vậy.
That any recluse or brahmin could say: “Apart from material form, apart from feeling, apart from perception, apart from formations, I shall describe the coming and going of consciousness, its passing away and re-appearance, its growth, increase, and maturation” — that is impossible.942
Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có sự đoạn diệt này, Như Lai thấy sự giải thoát pháp hữu vi và đã vượt khỏi pháp hữu vi.
That is conditioned and gross, but there is [231] cessation of formations.’ Having known ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết tự ngã là Phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh;
8. (III) “Therein, bhikkhus, those recluses and brahmins who describe the self as neither percipient nor non-percipient and unimpaired after death describe such a self, neither percipient nor non-percipient and unimpaired after death, to be either:
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh;
material;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh;
or immaterial;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc và không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh;
or both material and immaterial;
các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, không không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh.
or neither material nor immaterial.943
Ở đây này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã có tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các vị ấy; các Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã không tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các vị ấy. Vì sao vậy? Họ nói rằng: "Tưởng là bệnh hoạn, tưởng là mụt nhọt, tưởng là mũi tên, không tưởng là si ám. Ðây là tịch tịnh, thù diệu, tức là phi tưởng phi phi tưởng".
9. “Therein, bhikkhus, these criticise those good recluses and brahmins who describe the self as percipient and unimpaired after death, and they criticise those good recluses and brahmins who describe the self as non-percipient and unimpaired after death. Why is that? Because they say: ‘Perception is a disease, perception is a tumour, perception is a dart, and non-perception is stupefaction;944 this is peaceful, this is sublime, that is, neither-perception-nor-non-perception.’
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: "Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã là phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã hoặc có sắc và không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh; các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương sau khi chết, tự ngã là không có sắc, không không sắc, phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh".
10. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this thus: ‘Those good recluses and brahmins who describe the self as neither percipient nor non-percipient and unimpaired after death describe such a self, neither percipient nor non-percipient and unimpaired after death, to be either material… or neither material nor immaterial.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sự thành tựu của xứ này (āyatana) chỉ nhờ những hành có thể thấy được, nghe được, tư duy được, ý thức được; đây được xưng, này các Tỷ-kheo, là tổn hại cho sự thành tựu xứ (āyatana) này. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, xứ này không được xưng là có thể đạt thành nhờ sự thành tựu hữu hành (saṅkhāra), mà này các Tỷ-kheo, xứ này được xưng là có thể đạt thành nhờ sự thành tựu không có hành nào còn lại.
If any recluses or brahmins describe the entering upon this base to come about through a measure of formations regarding what is seen, heard, sensed, and cognized, that is declared to be a disaster for entering upon this base.945 [232] For this base, it is declared, is not to be attained as an attainment with formations; this base, it is declared, is to be attained as an attainment with a residue of formations.946
Biết rằng cái này thuộc hữu vi (saṅkhata) là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có sự đoạn diệt này, Như Lai thấy sự giải thoát khỏi pháp hữu vi và đã vượt khỏi pháp hữu vi.
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations.’ Having known ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương đoạn diệt, hủy hoại, diệt tận của loại hữu tình hiện đang sinh tồn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã có tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các vị ấy. Còn những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã không tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các vị ấy. Còn những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sau khi chết, tự ngã phi tưởng phi phi tưởng, không bệnh, một số phỉ báng các vị ấy.
11. (IV) “Therein, bhikkhus, those recluses and brahmins who describe the annihilation, destruction, and extermination of an existing being [at death]947 criticise those good recluses and brahmins who describe the self as percipient and unimpaired after death, and they criticise those good recluses and brahmins who describe the self as non-percipient and unimpaired after death, and they criticise those good recluses and brahmins who describe the self as neither percipient nor non-percipient and unimpaired after death.
Vì sao vậy? Tất cả những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này hướng thượng tuyên bố có chấp trước (āsatti): "Ðời sau chúng ta sẽ hiện hữu, đời sau chúng ta sẽ hiện hữu".
Why is that? All these good recluses and brahmins, rushing onwards, assert their attachment thus: ‘We shall be thus after death, we shall be thus after death.’
Ví như một người lái buôn đi buôn bán nghĩ rằng: "Từ đây ta sẽ có vật này, ta sẽ được vật này từ cái này".
Just as a merchant going to market thinks: ‘Through this, that will be mine; with this, I will get that’;
Cũng vậy, những vị Sa-môn, Bà-la-môn này, chúng ta nghĩ rằng, cũng giống như những người lái buôn khi các vị này nói: "Ðời sau chúng ta sẽ hiện hữu, đời sau chúng ta sẽ hiện hữu".
so too, these good recluses and brahmins seem like merchants when they declare: ‘We shall be thus after death, we shall be thus after death.’
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết được: "Những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương đoạn diệt, hủy hoại, diệt tận, loại hữu tình hiện đang sinh tồn, những vị ấy sợ hãi tự thân, yếm ly tự thân, chỉ chạy theo và chạy vòng quanh tự thân".
12. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this thus: ‘Those good recluses and brahmins who describe the annihilation, destruction, and extermination of an existing being [at death], through fear of identity and disgust with identity, keep running and circling around that same identity.948
Ví như một con chó bị dây cột vào một cột trụ hay cây cột vững chắc, chạy theo và chạy vòng tròn cột trụ hay cây cột ấy.
Just as a dog bound by a leash tied to a firm post or pillar [233] keeps on running and circling around that same post or pillar;
Cũng vậy, các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy sợ hãi tự thân, yếm ly tự thân, chỉ biết chạy theo và chạy vòng quanh tự thân.
so too, these good recluses and brahmins, through fear of identity and disgust with identity, keep running and circling around that same identity.
Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có sự đoạn diệt này, Như Lai thấy sự giải thoát khỏi pháp hữu vi, và đã vượt khỏi pháp hữu vi.
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations.’ Having known ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào luận bàn về tương lai, thảo luận về tương lai, y cứ vào tương lai tuyên bố nhiều quan điểm sai khác, tất cả đều tuyên bố năm xứ này hay một trong chúng.
13. “Bhikkhus, any recluses or brahmins who speculate about the future and hold views about the future, who assert various doctrinal propositions concerning the future, all assert these five bases or a certain one among them.949
Luận bàn về quá khứ
(SPECULATIONS ABOUT THE PAST)
Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ, thảo luận về quá khứ, y cứ vào quá khứ, tuyên bố nhiều quan điểm sai khác:
14. “Bhikkhus, there are some recluses and brahmins who speculate about the past and hold views about the past, who assert various doctrinal propositions concerning the past.
"Tự ngã và thế giới là thường còn; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(1) Some assert thus: ‘The self and the world are eternal: only this is true, anything else is wrong.’950
"Tự ngã và thế giới là vô thường; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(2) Some assert thus: ‘The self and the world are not eternal: only this is true, anything else is wrong.’951
"Tự ngã và thế giới là thường còn, là vô thường; chỉ như vậy là chân thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(3) Some assert thus: ‘The self and the world are both eternal and not eternal: only this is true, anything else is wrong.’952
"Tự ngã và thế giới là không phải thường còn, không phải vô thường; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(4) Some assert thus: ‘The self and the world are neither eternal nor not eternal: only this is true, anything else is wrong.’953
"Tự ngã và thế giới là hữu biên; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(5) Some assert thus: ‘The self and the world are finite: only this is true, anything else is wrong.’954
"Tự ngã và thế giới là vô biên; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(6) Some assert thus: ‘The self and the world are infinite: only this is true, anything else is wrong.’
"Tự ngã và thế giới là hữu biên và vô biên; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(7) Some assert thus: ‘The self and the world are both finite and infinite: only this is true, anything else is wrong.’
"Tự ngã và thế giới không phải hữu biên, không phải vô biên; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(8) Some assert thus: ‘The self and the world are neither finite nor infinite: only this is true, anything else is wrong.’
"Tự ngã và thế giới là nhứt tưởng; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(9) Some assert thus: ‘The self and the world are percipient of unity: only this is true, anything else is wrong.’955
"Tự ngã và thế giới là dị tưởng; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(10) Some assert thus: ‘The self and the world are percipient of diversity: only this is true, anything else is wrong.’
"Tự ngã và thế giới là thiểu tưởng; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(11) Some assert thus: ‘The self and the world are percipient of the limited: only this is true, anything else is wrong.’
"Tự ngã và thế giới là vô lượng tưởng; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(12) Some assert thus: ‘The self and the world are percipient of the immeasurable: only this is true, anything else is wrong.’
"Tự ngã và thế giới là nhứt hướng lạc; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(13) Some assert thus: ‘The self and the world [experience] exclusively pleasure: only this is true, anything else is wrong.’
"Tự ngã và thế giới là nhứt hướng khổ; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(14) Some assert thus: ‘The self and the world [experience] exclusively pain: only this is true, anything else is wrong.’ [234]
"Tự ngã và thế giới là lạc và khổ; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(15) Some assert thus: ‘The self and the world [experience] both pleasure and pain: only this is true, anything else is wrong.’
"Tự ngã và thế giới là không khổ, không lạc; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ở đây, một số tuyên bố như vậy.
(16) Some assert thus: ‘The self and the world [experience] neither pleasure nor pain: only this is true, anything else is wrong.’
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có chủ thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới là thường còn, chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng". Ngoài tín, ngoài hỷ, ngoài tùy văn, ngoài thẩm định lý do, ngoài kham nhẫn chấp thọ tà kiến, trí tự mình sẽ trở thành thanh tịnh, trong sạch; sự tình như vậy không xảy ra.
15. (1) “Therein, bhikkhus, as to those recluses and brahmins who hold such a doctrine and view as this: ‘The self and the world are eternal: only this is true, anything else is wrong,’ that apart from faith, apart from approval, apart from oral tradition, apart from reasoned cogitation, apart from reflective acceptance of a view, they will have any pure and clear personal knowledge of this — that is impossible.956
Này các Tỷ-kheo, nếu trí tự mình không trở thành thanh tịnh, trong sạch, thời cho đến chỉ một phần nhỏ của trí mà những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy làm cho trong sạch, chính như vậy cũng được xưng là chấp trước đối với những vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy.
Since they have no pure and clear personal knowledge, even the mere fragmentary knowledge that those good recluses and brahmins clarify [about their view] is declared to be clinging on their part.957
Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, không có sự đoạn diệt các hành, biết được có sự đoạn diệt này, Như Lai thấy sự giải thoát khỏi pháp hữu vi và đã vượt khỏi pháp hữu vi.
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations. Having known‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới là vô thường... tự ngã và thế giới là thường còn và vô thường... tự ngã và thế giới không thường còn và không vô thường... tự ngã và thế giới là vô biên... tự ngã và thế giới là hữu biên và vô biên... tự ngã và thế giới là không hữu biên và không vô biên... tự ngã và thế giới là nhứt tưởng... tự ngã và thế giới là dị tưởng... tự ngã và thế giới là thiểu tưởng... tự ngã và thế giới là vô lượng tưởng... tự ngã và thế giới là nhứt hướng lạc... tự ngã và thế giới là nhứt hướng khổ... tự ngã và thế giới là lạc và khổ... tự ngã và thế giới là không khổ, không lạc; chỉ như vậy là chơn thật, ngoài ra là hư vọng".
16. (2–16) “Therein, bhikkhus, as to those recluses and brahmins who hold such a doctrine and view as this: ‘The self and the world are not eternal… both eternal and not eternal… neither eternal nor not eternal… finite… infinite… both finite and infinite… neither finite nor infinite… percipient of unity… percipient of diversity… percipient of the limited… percipient of the immeasurable… [experience] exclusively pleasure… [experience] exclusively pain… [experience] both pleasure and pain… [experience] neither pleasure nor pain: only this is true, anything else is wrong,’
Ngoài lòng tin, ngoài hỷ, ngoài tùy văn, ngoài thẩm định lý do, ngoài sự kham nhẫn chấp thọ tà kiến, trí tự mình sẽ trở thành thanh tịnh, trong sạch, sự tình như vậy không xảy ra.
that apart from faith, apart from approval, apart from oral tradition, apart from reasoned cogitation, apart from reflective acceptance of a view, they will have any pure and clear personal knowledge of this — that is impossible. [235]
Này các Tỷ-kheo, nếu trí tự mình không trở thành thanh tịnh, trong sạch, thời cho đến chỉ một phần nhỏ của trí mà những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy làm cho trong sạch, chính như vậy cũng được xưng là chấp trước đối với những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy.
Since they have no pure and clear personal knowledge, even the mere fragmentary knowledge that those good recluses and brahmins clarify [about their view] is declared to be clinging on their part.
Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có sự đoạn diệt này, Như Lai thấy sự giải thoát khỏi pháp hữu vi, và đã vượt khỏi pháp hữu vi.
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations. Having known ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.958
Niết-bàn hiện tiền
(NIBBĀNA HERE AND NOW)959
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn do từ bỏ những quan điểm về quá khứ, và từ bỏ những quan điểm về tương lai, do không hoàn toàn chú tâm đến những dục kiết sử, đạt được viễn ly hỷ và an trú. Vị ấy nghĩ: "Ðây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt được viễn ly hỷ, ta an trú".
17. (V) “Here, bhikkhus,960 some recluse or brahmin, with the relinquishing of views about the past and the future and through complete lack of resolve upon the fetters of sensual pleasure, enters upon and abides in the rapture of seclusion.961 He thinks: ‘This is the peaceful, this is the sublime, that I enter upon and abide in the rapture of seclusion.’
Nhưng nếu viễn ly hỷ ấy của vị này bị đoạn diệt, do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, ưu tư sanh khởi. Do ưu tư được đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh khởi.
That rapture of seclusion ceases in him. With the cessation of the rapture of seclusion, grief arises, and with the cessation of grief, the rapture of seclusion arises.962
Ví như, này các Tỷ-kheo, chỗ nào bóng mát từ bỏ, chỗ ấy sức nóng mặt trời lan rộng, chỗ nào sức nóng mặt trời từ bỏ, chỗ ấy bóng mát lan rộng;
Just as the sunlight pervades the area that the shadow leaves, and the shadow pervades the area that the sunlight leaves,
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, ưu tư sanh khởi. Do ưu tư được đoạn diệt nên viễn ly hỷ sanh khởi.
so too, with the cessation of the rapture of seclusion, grief arises, and with the cessation of grief, the rapture of seclusion arises.
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: Vị Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này, do từ bỏ những quan điểm về quá khứ, và do từ bỏ những quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, sau khi đạt được viễn ly hỷ, liền an trú: "Ðây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt được viễn ly hỷ, ta an trú". Viễn ly ấy của vị này bị đoạn diệt. Do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, ưu tư sanh khởi; do ưu tư được đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh khởi.
18. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this thus: ‘This good recluse or brahmin, with the relinquishing of views about the past and the future… and with the cessation of grief, the rapture of seclusion arises.
Biết rằng cái này thuộc hữu vi pháp là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, biết được có sự đoạn diệt này, Như Lai thấy sự giải thoát khỏi pháp hữu vi và đã vượt khỏi pháp hữu vi.
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations.’ Having known ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn, do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt qua viễn ly hỷ, sau khi đạt được phi vật chất lạc liền an trú: "Ðây là sự thật, đây là thù diệu tức là đạt được phi vật chất lạc, ta an trú".
19. “Here, bhikkhus, some recluse or brahmin, with the relinquishing of views about the past and the future, through complete lack of resolve upon the fetters of sensual pleasure, and with the surmounting of the rapture of seclusion, enters upon and abides in unworldly pleasure.963 He thinks: ‘This is the peaceful, this is the sublime, that I enter upon and abide in unworldly pleasure.’
Phi vật chất lạc của vị ấy bị đoạn diệt; do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh khởi; do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi.
That unworldly pleasure ceases in him. With the cessation of unworldly pleasure, the rapture of seclusion arises, and with the cessation of the rapture of seclusion, unworldly pleasure arises. [236]
Ví như, này các Tỷ-kheo, chỗ nào bóng mát từ bỏ, chỗ ấy sức nóng mặt trời lan rộng, chỗ nào sức nóng mặt trời từ bỏ, chỗ ấy bóng mát lan rộng;
Just as the sunlight pervades the area that the shadow leaves, and the shadow pervades the area that the sunlight leaves,
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh khởi; do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi.
so too, with the cessation of unworldly pleasure, the rapture of seclusion arises and with the cessation of the rapture of seclusion, unworldly pleasure arises.
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: Vị Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này, do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt qua viễn ly hỷ, đạt được phi vật chất lạc và an trú: "Ðây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt được phi vật chất lạc, ta an trú". Phi vật chất lạc ấy của vị này bị đoạn diệt. Do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, viễn ly hỷ sanh khởi; do viễn ly hỷ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi.
20. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this thus: ‘This good recluse or brahmin, with the relinquishing of views about the past and the future… and with the cessation of the rapture of seclusion, unworldly pleasure arises.
Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành; biết được có sự đoạn diệt này, Như Lai thấy được sự giải thoát khỏi pháp hữu vi và đã vượt khỏi pháp hữu vi.
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations.’ Having known ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hay Bà-la-môn, do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt qua viễn ly hỷ, do vượt qua phi vật chất lạc, sau khi đạt được vô khổ vô lạc thọ, liền an trú: "Ðây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt được vô khổ vô lạc thọ, ta an trú".
21. “Here, bhikkhus, some recluse or brahmin, with the relinquishing of views about the past and the future, through complete lack of resolve upon the fetters of sensual pleasure, and with the surmounting of the rapture of seclusion and unworldly pleasure, enters upon and abides in neither-painful-nor-pleasant feeling.964 He thinks: ‘This is the peaceful, this is the sublime, that I enter upon and abide in neither-painful-nor-pleasant feeling.’
Vô khổ vô lạc thọ ấy của vị này bị đoạn diệt. Do vô khổ vô lạc thọ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi; do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, vô khổ vô lạc thọ sanh khởi.
That neither-painful-nor-pleasant feeling ceases in him. With the cessation of neither-painful-nor-pleasant feeling, unworldly pleasure arises, and with the cessation of unworldly pleasure, neither-painful-nor-pleasant feeling arises.
Ví như này các Tỷ-kheo, chỗ nào bóng mát từ bỏ, chỗ ấy sức nóng mặt trời lan rộng, chỗ nào sức nóng từ bỏ, chỗ ấy bóng mát lan rộng;
Just as the sunlight pervades the area that the shadow leaves, and the shadow pervades the area that the sunlight leaves,
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do vô khổ vô lạc thọ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi; do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, vô khổ vô lạc thọ sanh khởi.
so too, with the cessation of neither-painful-nor-pleasant feeling, unworldly pleasure arises, and with the cessation of unworldly pleasure, neither-painful-nor-pleasant feeling arises.
Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: vị Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này, do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt qua viễn ly hỷ, do vượt qua phi vật chất lạc, sau khi đạt được vô khổ vô lạc thọ, liền an trú: "Ðây là sự thật, đây là thù diệu, tức là đạt được vô khổ vô lạc thọ, ta an trú". Vô khổ vô lạc thọ ấy của vị này bị đoạn diệt.
22. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this thus: ‘This good recluse or brahmin, with the relinquishing of views about the past and the future… [237]…
Do vô khổ vô lạc thọ bị đoạn diệt, phi vật chất lạc sanh khởi; do phi vật chất lạc bị đoạn diệt, vô khổ vô lạc thọ sanh khởi.
and with the cessation of unworldly pleasure, neither-painful-nor-pleasant feeling arises.
Biết rằng cái này thuộc hữu vi là thô pháp, nhưng có sự đoạn diệt các hành, sau khi biết được: "Ðây có sự đoạn diệt các hành này, Như Lai thấy được sự giải thoát khỏi hữu vi pháp" và đã vượt khỏi hữu vi pháp.
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations.’ Having known ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn, do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt khỏi viễn ly hỷ, do vượt khỏi phi vật chất lạc, do vượt khỏi vô khổ vô lạc thọ, vị ấy quán: "Ta là tịch tịnh, ta là tịch diệt, ta là không chấp thủ".
23. “Here, bhikkhus, some recluse or brahmin, with the relinquishing of views about the past and the future, through complete lack of resolve upon the fetters of sensual pleasure, and with the surmounting of the rapture of seclusion, unworldly pleasure, and neither-painful-nor-pleasant feeling, regards himself thus: ‘I am at peace, I have attained Nibbāna, I am without clinging.’965
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai biết như sau: Vị Tôn giả Sa-môn, Bà la môn này, do từ bỏ các quan điểm về quá khứ, do từ bỏ các quan điểm về tương lai, do hoàn toàn không chú tâm đến các dục kiết sử, do vượt khỏi viễn ly hỷ, do vượt khỏi phi vật chất lạc, do vượt khỏi vô khổ vô lạc thọ, vị ấy quán: "Ta là tịch tịnh, ta là tịch diệt, ta là không chấp thủ". Chắc chắn vị Ðại đức này tuyên bố con đường thích hợp đưa đến Niết-bàn.
24. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this thus: ‘This good recluse or brahmin, with the relinquishing of views about the past and the future… regards himself thus: “I am at peace, I have attained Nibbāna, I am without clinging.” Certainly this venerable one asserts the way directed to Nibbāna.
Nhưng vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này khởi lên chấp thủ, hoặc chấp thủ quan điểm về quá khứ, hoặc chấp thủ quan điểm về tương lai, hoặc chấp thủ dục kiết sử, hoặc chấp thủ viễn ly hỷ, hoặc chấp thủ phi vật chất lạc, hoặc chấp thủ vô khổ vô lạc thọ.
Yet this good recluse or brahmin still clings, clinging either to a view about the past or to a view about the future or to a fetter of sensual pleasure or to the rapture of seclusion or to unworldly pleasure or to neither-painful-nor-pleasant feeling.
Dầu cho vị Ðại đức này quán: "Ta là tịch tịnh, ta là tịch diệt, ta không có chấp trước", nhưng vị này vẫn được xem là có chấp trước về điểm ấy.
And when this venerable one regards himself thus: “I am at peace, I have attained Nibbāna, I am without clinging,” that too is declared to be clinging on the part of this good recluse or brahmin.966
Biết rằng cái này thuộc hữu vi pháp là thô pháp, nhưng có đoạn diệt các hành, sau khi biết được có sự đoạn diệt các hành này, Như Lai thấy được sự giải thoát khỏi hữu vi pháp và đã vượt khỏi hữu vi pháp.
That is conditioned and gross, but there is cessation of formations.’ Having understood ‘There is this,’ seeing the escape from that, the Tathāgata has gone beyond that.
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, vô thượng tịch tịnh, tối thắng đạo được Như Lai chánh đẳng giác, nghĩa là sau khi như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt và sự nguy hiểm của sáu xúc xứ, có sự giải thoát không chấp thủ.
25. “Bhikkhus, this supreme state of sublime peace has been discovered by the Tathāgata, that is, liberation through not clinging,967 by understanding as they actually are the origination, the disappearance, the gratification, the danger, and the escape in the case of the six bases of contact.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vô thượng tịch tịnh tối thắng đạo này được Như Lai chánh đẳng giác, nghĩa là sau khi như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt và sự nguy hiểm của sáu xúc xứ, có sự giải thoát không chấp thủ.
Bhikkhus, that is the supreme state of sublime peace discovered by the Tathāgata, [238], that is, liberation through not clinging, by understanding as they actually are the origination, the disappearance, the gratification, the danger, and the escape in the case of the six bases of contact.”968
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. The bhikkhus were satisfied and delighted in the Blessed One’s words.