Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trường Bộ (Dīgha Nikāya) »» 13. Kinh Tam Minh - 13. The Threefold Knowledge - The Way to Brahmā »»

Kinh Trường Bộ (Dīgha Nikāya) »» 13. Kinh Tam Minh - 13. The Threefold Knowledge - The Way to Brahmā

Donate

Tevijja sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

13. Kinh Tam Minh

13. The Threefold Knowledge - The Way to Brahmā

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Maurice Walshe
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang du hành ở Kosala (Câu-tát-la) cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị và đi đến một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Manasākata. Tại đây, ở Manasākata, Thế Tôn trú tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravatī (A-trí-la-phạt-để), phía Bắc làng Manasākata.
[235] 1. THUS HAVE I HEARD. Once the Lord was touring Kosala with a large company of some five hundred monks. He came to a Kosalan Brahmin village called Manasākata, and stayed to the north of the village in a mango-grove on the bank of the River Aciravatī.
2. Lúc bấy giờ, nhiều Bà-la-môn trứ danh, đại phú hào ở tại Manasākata như Bà-la-môn Caṅkī (Thường-già), Bà-la-môn Tārukkha (Ða-lê-xa) Bà-la-môn Pokkharasāti (Phí-già-la-bà-la), Bà-la-môn Jāṇussoṇi (Sanh Lậu), Bà-la-môn Todeyya (Ðạo-đề-da) và nhiều Bà-la-môn trứ danh, đại phú hào khác.
2. And at that time many very well-known and prosperous Brahmins were staying at Manasākata, including Cankī, Tārukkha, Pokkharasāti, Jāṇussoṇi, and Todeyya.
3. Lúc bấy giờ, một cuộc nghị luận về chánh đạo và tà đạo khởi lên giữa Vāseṭṭha (Bà-tất-sá) và Bhāradvāja (Bạt-la-đà-phạn-xà) trong khi đi bách bộ để tĩnh dưỡng, vừa đi vừa suy nghĩ tư duy.
3. And Vāseṭṭha and Bhāradvāja went strolling along the road, and as they did so, an argument broke out between them on the subject of right and wrong paths.
4. Thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha nói:
4. The young Brahmin Vāseṭṭha said:
- Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo. Ðó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasāti giảng dạy;
‘This is the only straight path, this is the direct path, the path of salvation that leads one who follows it to union with Brahmā, as is taught by the Brahmin Pokkharasāti!’249
5. Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja nói:
5. And the young Brahmin Bhāradvāja said:
- Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tārukkha giảng dạy.
‘This is the only straight path... [236] as taught by the Brahmin Tārukkha!’
6. Thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha không thể thuyết phục được thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja và thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja, cũng không thể thuyết phục được thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha.
6. And Vāseṭṭha could not convince Bhāradvāja, nor could Bhāradvāja convince Vāseṭṭha.
7. Khi ấy thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha nói với thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja:
7. Then Vāseṭṭha said to Bhāradvāja:
- Này Bhāradvāja, Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay trú ở Manasākata, tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravatī, phía Bắc làng Manasākata. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
‘This ascetic Gotama is staying to the north of the village, and concerning this Blessed Lord a good report has been spread about... (as Sutta 4, verse 2).
Này Bhāradvāja, hãy đến Sa-môn Gotama và hỏi Sa-môn Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
Let us go to the ascetic Gotama and ask him, and whatever he tells us, we shall accept.’ And Bhāradvāja agreed.
- Tôn giả, xin vâng!
Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja trả lời với thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha.
8. Lúc bấy giờ hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đến Thế Tôn, khi đã đến liền nói những lời chào đón hỏi thăm xã giao với Thế Tôn và ngồi xuống một bên, khi ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha bạch Thế Tôn:
8. So the two of them went to see the Lord. Having exchanged courtesies with him, they sat down to one side, and Vāseṭṭha said: ‘Reverend Gotama, as we were strolling along the road, we got to discussing right and wrong paths. I said:
- Tôn giả Gotama, một cuộc nghị luận về chánh đạo và tà đạo khởi lên giữa hai chúng tôi trong khi đi bách bộ để tĩnh dưỡng vừa đi vừa suy nghĩ, tư duy.
Tôi nói như vầy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasāti giảng dạy".
“This is the only straight path... as is taught by the Brahmin Pokkharasāti”,
Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja nói như vầy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tārukkha giảng dạy". Tôn giả Gotama , đó là sự tranh luận, sự luận chấp, đó là sự bất đồng ý kiến.
and Bhāradvāja said: “This is the only straight path...as is taught by the Brahmin Tārukkha.” This is our dispute, our quarrel, our difference.’ [237]
9. Này Vāseṭṭha, Ngươi nói như vầy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo. Ðó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasāti giảng dạy". Còn thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja nói như vầy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tārukkha giảng dạy". Này Vāseṭṭha, ở nơi đây tranh biện về vấn đề gì, luận chấp về vấn đề gì và bất đồng ý kiến về vấn đề gì?
9. ‘So, Vāseṭṭha, you say that the way to union with Brahmā is that taught by the Brahmin Pokkharasāti, and Bhāradvāja says it is that taught by the Brahmin Tārukha. What is the dispute, the quarrel, the difference all about?’
10. - Tôn giả Gotama, về vấn đề chánh đạo và tà đạo. Tôn giả Gotama, nhiều Bà-la-môn thuyết dạy nhiều con đường sai khác như các vị Bà-la-môn Addhāriyā, các vị Bà-la-môn Tittiriyā, và các vị Bà-la-môn Chandokā, các vị Bà-la-môn Chandavā, các vị Bà-la-môn Brāhmacariyā - tất cả con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo.
10. ‘Right and wrong paths, Reverend Gotama. There are so many kinds of Brahmins who teach different paths: the Addhāriyā, the Tittiriyā, the Chandokā, the Chandāva, the Brāhmacariyā250 Brahmins — do all these ways lead to union with Brahmā?
Tôn giả Gotama, như gần làng hay gần trị trấn có nhiều con đường sai khác, nhưng tất cả con đường này đều dẫn đến làng. Cũng vậy, Tôn giả Gotama, nhiều Bà-la-môn thuyết dạy nhiều con đường sai khác - như các Bà-la-môn Addhāriyā, các vị Bà-la-môn Tittiriyā, các vị Bà-la-môn Chandokā, các vị Bà-la-môn Chandāvā, các vị Bà-la-môn Brāhmacariyā. Tất cả con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo.
Just as if there were near a town or village many different paths — do all these come together at that place? And likewise, do the ways of the various Brahmins... lead the one who follows them to union with Brahmā?’
- Này Vāseṭṭha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến?" - Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
11. ‘You say: “They lead”, Vāseṭṭha?’ ‘I say: “They lead”, Reverend Gotama.’
- Này Vāseṭṭha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến". - Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
‘You say: “They lead”, Vāseṭṭha?’ ‘I say: “They lead”, Reverend Gotama.’
- Này Vāseṭṭha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến". - Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn dến".
‘You say: “They lead”, Vāseṭṭha?’ ‘I say: “They lead”, Reverend Gotama.’ [238]
12. - Thế nào Vāseṭṭha? Có Bà-la-môn nào trong những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà tận mặt đã thấy Phạm thiên?
12. ‘But, Vāseṭṭha, is there then a single one of these Brahmins learned in the Three Vedas who has seen Brahmā face to face?’
- Tôn giả Gotama, không có vị nào.
‘No, Reverend Gotama.’
- Thế nào Vāseṭṭha? Có tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà đã tận mặt thấy Phạm thiên?
‘Then has the teacher’s teacher of any one of them seen Brahmā face to face?’
- Tôn giả Gotama, không có vị nào.
‘No, Reverend Gotama.’
- Thế nào Vāseṭṭha? Có Bà-la-môn nào cho đến bảy đời tôn sư và đại tôn sư của những vị Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà đã tận mặt nhìn thấy Phạm thiên?
‘Then has the ancestor seven generations back of the teacher of one of them seen Brahmā face to face?’
- Tôn giả Gotama, không có vị nào.
‘No, Reverend Gotama.’
13. - Thế nào, này Vāseṭṭha. Những vị tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những vị Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà cũng hát lên, trì tụng và ngâm giảng như các vị Aṭṭhaka (A-sá-ca) Vāmaka (Bà-ma), Vāmadeva (Bà-ma-đề-bà), Vessāmitta (Tì-bà-thẩm-sá), Yamataggi (Gia-bà-đề-bà), Aṅgirasa (Ương-kỳ-sá), Bhāradvāja (Bạt-la-đà-phan-xà), Vāseṭṭha (Bà-tất-sá), Kassapa (Ca-diếp), Bhagu (Bà-cữu), những vị này có nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy chỗ ở Phạm thiên, chỗ đến Phạm thiên, chỗ đi Phạm thiên?"
13. ‘Well then, Vāseṭṭha, what about the early sages of those Brahmins learned in the Three Vedas, the makers of the mantras, the expounders of the mantras, whose ancient verses are chanted, pronounced and collected by the Brahmins of today, and sung and spoken about — such as Atthaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu251 - did they ever say: “We know and see when, how and where Brahmā appears”?’252
- Tôn giả Gotama, không có vị nào.
‘No, Reverend Gotama.’
14. - Này Vāseṭṭha, như vậy Ngươi nói không có một Bà-la-môn nào trong những vị tinh thông ba tập Vệ-đà đã tận mặt thấy Phạm thiên - không có một tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một đại tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập và đã tận mặt thấy Phạm thiên - không có một Bà-la-môn nào cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà đã tận mắt thấy Phạm thiên, trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Aṭṭhaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmita, Yamataggi, Aṅgirasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu,
14. ‘So, Vāseṭṭha, not one of these Brahmins learned in the Three Vedas has seen Brahmā face to face, nor has one of their teachers, or teacher’s teachers, [239] nor even the ancestor seven generations back of one of their teachers.
không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu".
Nor could any of the early sages say: “We know and see when, how and where Brahmā appears.”
Như vậy, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo".
So what these Brahmins learned in the Three Vedas are saying is: “We teach this path to union with Brahmā that we do not know or see, this is the only straight path... leading to union with Brahmā.”
Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là không chánh xác, hợp lý?
What do you think, Vāseṭṭha? Such being the case, does not what these Brahmins declare turn out to be ill-founded?’
- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là không chánh xác, hợp lý.
‘Yes indeed, Reverend Gotama.’
15. - Này Vāseṭṭha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo", thật không thể có sự kiện ấy.
15. ‘Well, Vāseṭṭha, when these Brahmins learned in the Three Vedas teach a path that they do not know or see, saying: “This is the only straight path ... ”, this cannot possibly be right.
Này Vāseṭṭha, ví như một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy.
Just as a file of blind men go on, clinging to each other, and the first one sees nothing, the middle one sees nothing, and the last one sees nothing253-
Như vậy, này Vāseṭṭha lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, người đầu không thấy, giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy, giống như lời nói mù quáng. Lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà như vậy là lời nói đáng chê cười, là lời nói suông, là lời nói không tưởng, là lời nói trống rỗng.
so it is with the talk of these Brahmins learned in the Three Vedas: the first one [240] sees nothing, the middle one sees nothing, the last one sees nothing. The talk of these Brahmins learned in the Three Vedas turns out to be laughable, mere words, empty and vain.
16. - Này Vāseṭṭha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà như phần đông nhiều người khác - có thể thấy mặt trăng, mặt trời không, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ mặt trăng, mặt trời mọc và lặn?
16. ‘What do you think, Vāseṭṭha? Do these Brahmins learned in the Three Vedas see the sun and moon just as other people do, and when the sun and moon rise and set do they pray, sing praises and worship with clasped hands?’
- Thưa vâng, Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà như phần đông nhiều người khác có thể thấy mặt trăng, mặt trời, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay đảnh lễ chỗ mặt trăng, mặt trời mọc và lặn.
‘They do, Reverend Gotama.’
17. - Này Vāseṭṭha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà - như phần đông nhiều người khác thấy mặt trăng, mặt trời, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ mặt trăng mặt trời mọc và lặn, những vị này có thể thuyết dạy con đường đưa đến sự cộng trú với mặt trăng mặt trời không? Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với mặt trăng, mặt trời cho những ai thực hành theo?
17. ‘What do you think, Vāseṭṭha? These Brahmins learned in the Three Vedas, who can see the sun and moon just as other people do, ... can they point out a way to union with the sun and moon, saying: “This is the only straight path... that leads to union with the sun and moon”?’
- Tôn giả Gotama, không thể được!
‘No, Reverend Gotama.’
18. - Này Vāseṭṭha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà như phần đông nhiều người khác, thấy mặt trăng, mặt trời trong khi các vị này cầu khẩn tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ mặt trăng, mặt trời mọc và lặn, những vị này không có thể thuyết dạy con đường đưa đến sự cộng trú với mặt trăng mặt trời: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cọng trú với mặt trăng, mặt trời cho những ai thực hành theo".
18. ‘So, Vāseṭṭha, these Brahmins learned in the Three Vedas cannot point out a way to union with the sun and moon, which they have seen.
Ngươi cũng nói các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các đại tôn sư các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên.
And, too, none of them has seen Brahmā face to face,...[241] nor has even the ancestor seven generations back of one of their teachers.
Ngươi cũng nói trong những tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, những vị sáng tác các thần chú, được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy - như các vị Atthaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Anigirasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu,
không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu". Như vậy các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo". Này Vāseṭṭha, nhà Ngươi nghĩ thế nào?
Nor could any of the early sages say: “We know and see when, how and where Brahmā appears.”
Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là không chánh xác, hợp lý?"
Does not what these Brahmins declare turn out to be ill-founded?’
- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy, thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là không chánh xác, hợp lý.
‘Yes indeed, Reverend Gotama.’
- Lành thay, này Vāseṭṭha! Những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không biết, không thấy con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo". Thật không có sự kiện ấy.
19. Này Vāseṭṭha, như có người nói: "Tôi yêu và ái luyến một cô gái đẹp trong nước này". Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp mà Ông yêu và ái luyến ấy, Ông có biết là người giai cấp nào, là Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay Thủ-đà?" Khi được hỏi, người ấy trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp Ông yêu và ái luyến ấy, Ông có biết tên gì, họ gì, lớn người, thấp người hay người bậc trung? Da đen sẩm, da ngăm ngăm đen hay da hồng hào? Ở tại làng nào, ấp nào, hay thành phố nào?" Khi được hỏi vậy, người ấy trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, như vậy có phải Ông đã yêu và đã ái luyến một người Ông không biết, không thấy?"
19. ‘Vāseṭṭha, it is just as if a man were to say: “I am going to seek out and love the most beautiful girl in the country.” They might say to him: “... Do you know what caste she belongs to?” “No.” “Well, do you know her [242] name, her clan, whether she is tall or short..., dark or light-complexioned..., or where she comes from?” “No.” And they might say: “Well then, you don’t know or see the one you seek for and desire?”
Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời phải. Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý?
and he would say: “No.” Does not the talk of that man turn out to be stupid?’
- Vâng phải, Tôn giả Gotama. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của người kia không chánh xác, hợp lý.
‘Certainly, Reverend Gotama.’
20. - Cũng vậy, này Vāseṭṭha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các đại tôn sư các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, không thể tận mắt thấy được Phạm thiên.
20. ‘Then, Vāseṭṭha, it is like this: not one of these Brahmins ... has seen Brahmā face to face, nor has one of their teachers ...’
Ngươi cũng nói những tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia các thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà cũng hát lên, cũng trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu,
không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu". Như vậy các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến sự cộng trú với Phạm thiên nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo".
Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là không chánh xác, hợp lý?
- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là không chánh xác, hợp lý.
‘Yes indeed, Reverend Gotama.’
- Lành thay, Vāseṭṭha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo", thật không có sự kiện ấy.
‘That is right, Vāseṭṭha. When these Brahmins learned in the Three Vedas [243] teach a path that they do not know and see, this cannot possibly be right.
21. Này Vāseṭṭha, như một người muốn xây tại ngã tư đường một cái thang để leo lên lầu. Có người hỏi: "Này bạn, Ông muốn xây một cái thang để leo lên lầu, vậy Ông có biết lầu ấy là về hướng Ðông, hay về hướng Tây, hay về hướng Bắc, hay về hướng Nam? Nhà lầu ấy cao hay thấp, hay trung bình?" Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, như vậy có phải Ông xây một cái thang để leo lên một cái lầu mà Ông không biết, không thấy?" Hỏi vậy, vị ấy trả lời phải. Này Vāseṭṭha, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói người kia không chánh xác, hợp lý?
21. ‘Vāseṭṭha, it is just as if a man were to build a staircase for a palace at a crossroads. People might say: “This staircase for a palace — do you know whether the palace will face east or west, north or south, or whether it will be high, low or of medium height?” and he would say: “No.” And they might say: “Well then, you don’t know or see what kind of a palace you are building the staircase for?” and he would say: “No.” Does not the talk of that man turn out to be stupid?’
- Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy thời lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý.
‘Certainly, Reverend Gotama.’
22. - Cũng vậy, này Vāseṭṭha. Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các tôn sư các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các đại tôn sư các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không thể tận mắt thấy được Phạm thiên.
22 — 23. (as verse 20) [244]
Người cũng nói trong những ẩn sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được bình tán và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy - như các vị Atthaka, Vamaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu,
không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu?" Như vậy các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến sự cộng trú với Phạm thiên nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo".
Này Vāseṭṭha, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là không chánh xác, hợp lý?
- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là không chính xác hợp lý.
23. - Lành thay, Vāseṭṭha. Những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo". Thật không có sự kiện ấy.
24. Này Vāseṭṭha, như sông Aciravatī này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên bờ bên kia, tìm đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia và muốn lội qua bờ bên kia. Người đứng bờ bên này kêu bờ bên kia và nói: "Bờ bên kia, hãy lại đây! Bờ bên kia, hãy lại đây". Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải vì người kia kêu gọi bờ bên kia, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán mà bờ bên kia của sông Aciravatī đến bờ bên này không?
24. ‘Vāseṭṭha, it is just as if this River Aciravatī were brimful of water so that a crow could drink out of it, and a man should come along wishing to cross over, to get to the other side, to get across, and, standing on this bank, were to call out: “Come here, other bank, come here!” What do you think, Vāseṭṭha? Would the other bank of the River Aciravatī come over to this side on account of that man’s calling, begging, requesting or wheedling?’
- Tôn giả Gotama, không thể vậy.
‘No, Reverend Gotama.’
25. - Cũng vậy, này Vāseṭṭha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, loại bỏ những pháp tác thành người Bà-la-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Bà-la-môn, những vị này đã nói: "Chúng tôi cầu khẩn Indra (Nhân-đà-la), chúng tôi cầu khẩn Soma (Tô-ma), chúng tôi cầu khẩn Vanena (Bà-lưu-va), chúng tôi cầu khẩn Isāna (Y-sa-na), chúng tôi cầu khẩn Pajāpati (Sanh chủ), chúng tôi cầu khẩn Brahmā (Phạm thiên), chúng tôi cầu khẩn Mahiddhi (Ma-hi-đề), chúng tôi cầu khẩn Yama (Dạ-ma).
25. ‘Well now, Vāseṭṭha, those Brahmins learned in the Three Vedas who persistently neglect what a Brahmin should do, and persistently do what a Brahmin should not do, declare: “We call on Indra, Soma, Varuna, Isana, Pajapati, Brahmā, Mahiddhi, Yama.”
Này Vāseṭṭha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà ấy, loại bỏ những pháp tác thành người Bà-la-môn - vì kêu gọi, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán, sau khi thân hoại mạng chung, những vị ấy sẽ cộng trú với Phạm thiên - Thật không có sự kiện ấy.
But that such Brahmins who persistently [245] neglect what a Brahmin should do, ... will, as a consequence of their calling, begging, requesting or wheedling, attain after death, at the breaking-up of the body, to union with Brahmā — that is just not possible.
26. - Này Vāseṭṭha, như sông Aciravatī này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên bờ bên kia, tiến đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia, và muốn lội qua bờ bên kia. Người này đứng bên bờ này kêu bờ bên kia và nói: "Bờ bên kia hãy lại đây! Bờ bên kia hãy lại đây!" Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải vì người kia kêu gọi bờ bên kia, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán mà bờ bên kia của sông Aciravatī đến bờ bên này không?
26. ‘Vāseṭṭha, it is just as if this River Aciravatī were brimful of water so that a crow could drink out of it, and a man should come wishing to cross over,... but he was bound and pinioned on this side by a strong chain, with his hands behind his back. What do you think, Vāseṭṭha? Would that man be able to get to the other side?’
- Tôn giả Gotama, không thể vậy.
‘No, Reverend Gotama.’
27. - Cũng vậy, này Vāseṭṭha, có năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh. Năm pháp này được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm? Những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục, ái lạc; những tiếng do tai cảm nhận... những hương do mũi cảm nhận... những vị do lưỡi cảm nhận.. những xúc do thân cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc.
27. ‘In just the same way, Vāseṭṭha, in the Ariyan discipline these five strands of sense-desire are called bonds and fetters. Which five? Forms seen by the eye which are agreeable, loved, charming, attractive, pleasurable, arousing desire; sounds heard by the ear... ; smells smelt by the nose ... ; tastes savoured by the tongue...; contacts felt by the body which are agreeable,... arousing desire.
Này Vāseṭṭha, năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh ấy, được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong giới luật của bậc Thánh. Này Vāseṭṭha, năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh ấy, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly của chúng, đã tận hưởng năm pháp ấy.
These five in the Ariyan discipline are called bonds and fetters. And, Vāseṭṭha, those Brahmins learned in the Three Vedas are enslaved, infatuated by these five strands of sense-desire, which they enjoy guiltily, unaware of danger, knowing no way out.
28. - Này Vāseṭṭha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, loại bỏ những pháp tác thành người Bà-la-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Bà-la-môn, chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly của chúng, tận hưởng chúng, bị trói buộc bởi sự trói buộc của dục lạc, sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên, thật không có sự kiện ấy.
28. ‘But that such Brahmins learned in the Three Vedas, who persistently neglect what a Brahmin should do,...[246] who are enslaved by these five strands of sense-desire, ... knowing no way out, should attain after death, at the breaking-up of the body, to union with Brahmā — that is just not possible.
29. - Này Vāseṭṭha, như sông Acivarati này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên bờ bên kia, tìm đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia và muốn lội qua bờ bên kia. Người này ở bên bờ này trùm đầu và nằm ngủ. Này Vāseṭṭha, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Người ấy có thể từ bên này của sông Aciravatī đến bờ bên kia không?
29. ‘It is just as if this River Aciravatī were brimful of water so that a crow could drink out of it, and a man should come along wishing to cross over... and were to lie down on this bank, covering his head with a shawl. What do you think, Vāseṭṭha? Would that man be able to get to the other side?’
- Tôn giả Gotama, không có thể được.
‘No, Reverend Gotama.’
30. - Cũng vậy, này Vāseṭṭha, có năm triền cái được gọi là chướng ngại, cũng được gọi là triền cái, cũng được gọi là màn che, cũng được gọi là triền phược trong giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm? Dục cái, sân cái, hôn trầm thụy miên cái, trạo hối cái, nghi cái. Này Vāseṭṭha, năm triền cái này được gọi là chướng ngại, cũng được gọi là triền cái, cũng được gọi là màn che, cũng được gọi là triền phược.
30. ‘In the same way, Vāseṭṭha, in the Ariyan discipline these five hindrances are called obstacles, hindrances, coverings-up, envelopings. Which five? The hindrance of sensuality, of ill-will, of sloth-and-torpor, of worry-and-flurry, of doubt. These five are called obstacles, hindrances, coverings-up, envelopings.
Này Vāseṭṭha, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, bị chướng ngại, bị triền phược, bị che đậy, bị trói buộc bởi năm triền cái này, Này Vāseṭṭha, thật vậy, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, loại bỏ những pháp tác thành người Bà-la-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Bà-la-môn, bị chướng ngại, bị triền phược, bị che đậy, bị trói buộc bởi năm triền cái, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ cộng trú với Phạm thiên - Thật không thể có sự kiện ấy.
And these Brahmins learned in the Three Vedas are caught up, hemmed in, obstructed, entangled in these five hindrances. But that such Brahmins learned in the Three Vedas, who persistently neglect what a Brahmin should do... and who are caught up,... entangled in these five hindrances, should attain after death, at the breaking-up of the body, [247] to union with Brahmā - that is just not possible.
31. Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào? Ngươi có nghe những Bà-la-môn niên cao lạp trưởng, tôn sư và đại tôn sư cùng nhau nói chuyện không?
31. ‘What do you think, Vāsettha? What have you heard said by Brahmins who are venerable, aged, the teachers of teachers?
Phạm thiên có dục ái hay không dục ái? - Tôn giả Gotama, không có dục ái.
Is Brahmā encumbered with wives and wealth,254 or unencumbered?’ ‘Unencumbered, Reverend Gotama.’
- Có hận tâm hay không hận tâm? - Tôn giả Gotama, không có hận tâm.
‘Is he full of hate or without hate?’ ‘Without hate, Reverend Gotama.’
- Có sân tâm hay không sân tâm? - Tôn giả Gotama, không có sân tâm.
‘Is he full of ill-will or without ill-will?’ ‘Without ill-will, Reverend Gotama.’
- Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm? - Tôn giả Gotama, không có nhiễm tâm.
‘Is he impure or pure?’ ‘Pure, Reverend Gotama.’
- Có tự tại hay không có tự tại? - Tôn giả Gotama, có tự tại.
‘Is he disciplined255 or undisciplined?’ ‘Disciplined, Reverend Gotama.’
32. - Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào?
32. ‘And what do you think, Vāsettha?
Các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà có dục ái hay không dục ái? - Tôn giả Gotama, có dục ái.
Are the Brahmins learned in the Three Vedas encumbered with wives and wealth, or unencumbered?’ ‘Encumbered, Reverend Gotama.’
- Có hận tâm hay không hận tâm? - Tôn giả Gotama, có hận tâm.
‘Are they full of hate or without hate?’ ‘Full of hate, Reverend Gotama.’
- Có sân tâm hay không có sân tâm? - Tôn giả Gotama, có sân tâm.
‘Are they full of ill-will or without ill-will?’ ‘Full of ill-will, Reverend Gotama.’
- Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm? - Tôn giả Gotama, có nhiễm tâm.
‘Are they impure or pure?’ ‘Impure, Reverend Gotama.’
- Có tự tại hay không có tự tại? - Tôn giả Gotama, không có tự tại.
‘Are they disciplined or undisciplined?’ ‘Undisciplined, Reverend Gotama.’
33. - Này Vāseṭṭha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là có tham ái, Phạm thiên không có tham ái. Giữa các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là có tham ái với Phạm thiên không có tham ái, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
33. ‘So, Vāsettha, the Brahmins learned in the Three Vedas are encumbered with wives and wealth, and Brahmā is unencumbered. Is there any communion, anything in common between these encumbered Brahmins and the unencumbered Brahmā?’
- Tôn giả Gotama, không thể có được.
‘No, Reverend Gotama.’
34. - Lành thay, Vāseṭṭha. Này Vāseṭṭha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà có dục ái ấy sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên - Thật không thể có sự kiện ấy.
34. ‘That is right, Vāsettha. That these encumbered Brahmins, learned in the Three Vedas, should after death, at the breaking-up of the body, [248] be united with the unencumbered Brahmā — that is just not possible.
35. - Này Vāseṭṭha, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà có hận tâm, Phạm thiên không có hận tâm... các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là có sân tâm, Phạm thiên không có sân tâm... các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà là có nhiễm tâm, Phạm thiên không có nhiễm tâm... các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà không có tự tại, Phạm thiên có tự tại.
35. ‘Likewise, do these Brahmins learned in the Three Vedas and full of hate..., full of ill-will..., impure..., undisciplined, have any communion, anything in common with the disciplined Brahmā?’
Giữa các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà, không có tự tại với Phạm thiên có tự tại có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
- Tôn giả Gotama, không thể có được.
‘No, Reverend Gotama.’
36. - Lành thay, Vāseṭṭha. Này Vāseṭṭha, những vị Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ-đà sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên - Thật không thể có sự kiện ấy.
36. ‘That is right, Vāseṭṭha. That these undisciplined Brahmins should after death be united with Brahmā is just not possible.
Này Vāseṭṭha, ở đời các Bà-la-môn dầu có tinh thông ba tập Vệ-đà, khi các vị này ngồi (với sự tự tín), thật sự đang chìm (trong bùn lầy), và khi đang chìm (trong bùn lầy) phải sống trong thất vọng, lầm tưởng rằng đã đến cảnh giới an lạc hơn. Do vậy đối với những Bà-la-môn tinh thông Vệ-đà sự tinh thông ấy được gọi là bãi sa mạc không có nước, sự tinh thông ấy cũng được gọi là rừng rậm không có đường lối, sự tinh thông ấy cũng được gọi là sự bất hạnh.
But these Brahmins learned in the Three Vedas, having sat down on the bank, sink down despairingly, thinking maybe to find a dry way across. Therefore their threefold knowledge is called the threefold desert, the threefold wilderness, the threefold destruction.’
37. Khi nghe vậy, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha bạch Thế Tôn:
37. At these words Vāseṭṭha said: ‘Reverend Gotama, I have heard them say:
- Tôn giả Gotama, tôi có nghe nói Sa-môn Gotama biết con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.
“The ascetic Gotama knows the way to union with Brahmā.”’
- Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào? Ở đây có người sinh trưởng ở Manasākata, nhưng chưa bao giờ rời khỏi chỗ này. Có người hỏi con đường đưa đến Manasākata. Này Vāseṭṭha, đối với người ấy đã sinh trưởng ở Manasākata, chắc không có gì nghi ngờ hay khó khăn thì phải?
‘What do you think, Vāseṭṭha? Suppose there were a man here born and brought up in Manasākata, and somebody who had come from Manasākata and [249] and had missed the road should ask him the way. Would that man, born and bred in Manasākata, be in a state of confusion or perplexity?’
- Tôn giả Gotama, thật không có gì nghi ngờ hay khó khăn. Vì cớ sao? Tôn giả Gotama, người ấy sinh trưởng ở Manasākata đều biết rõ tất cả con đường đưa đến Manasākata.
‘No, Reverend Gotama. And why not? Because such a man would know all the paths.’
38. - Này Vāseṭṭha, đối với người ấy đã sinh trưởng Manasākata, còn có thể nghi ngờ và có khó khăn hỏi đến con đường đưa đến Manasākata nhưng đối với Như Lai thì không có nghi ngờ hay khó khăn gì khi hỏi đến Phạm thiên giới hay con đường đưa đến Phạm thiên giới! Này Vāseṭṭha, Ta biết đến Phạm thiên, Phạm thiên giới và con đường đưa đến Phạm thiên giới.
38. ‘Vāseṭṭha, it might be said that such a man on being asked the way might be confused or perplexed — but the Tathagata, on being asked about the Brahmā world and the way to get there, would certainly not be confused or perplexed. For, Vāseṭṭha, I know Brahmā and the world of Brahmā, and the way to the world of Brahmā, and the path of practice whereby the world of Brahmā may be gained.’
39. Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha bạch Thế Tôn:
39. At this Vāseṭṭha said:
- Tôn giả Gotama, tôi đã nghe: "Sa-môn Gotama, giảng dạy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên". Lành thay, nếu Sa-môn Gotama thuyết dạy con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên! Mong Tôn giả Gotama tế độ chúng Bà-la-môn!
‘Reverend Gotama, I have heard them say: “The ascetic Gotama teaches the way to union with Brahmā.” It would be good if the Reverend Gotama were to teach us the way to union with Brahmā, may the Reverend Gotama help the people of Brahmā!’
- Này Vāseṭṭha, vậy hãy lóng nghe và khéo tác ý kỹ? Ta sẽ nói:
‘Then, Vāsettha, listen, pay proper attention, and I will tell you.’ ‘Very good, Reverend Sir’, said Vāseṭṭha. The Lord said:
40. Này Vāseṭṭha, nay ở đời đức Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với thượng trí, thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người lại tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ.
40 — 75. ‘Vāseṭṭha, a Tathagata arises in the world, an Arabant, fully-enlightened Buddha, endowed with wisdom and conduct, Well-Farer, Knower of the worlds, incomparable Trainer of men to be tamed, Teacher of gods and humans, enlightened and blessed. He, having realised it by his own super-knowledge, proclaims this world with its devas, māras and Brahmās, its princes and people.
Ngài thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
He preaches the Dhamma which is lovely in its beginning, lovely in its middle, lovely in its ending, in the spirit and in the letter, and displays the fully-perfected and purified holy life. [250]
41. Người gia trưởng hay con vị gia trưởng, hay một người sinh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tin ngưỡng ấy, vị này suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
42. Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp, thanh tịnh. Mạng sống trong sạch, giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm, tỉnh giác và biết tri túc.
43. Này Vāseṭṭha, thế nào là Tỷ-kheo giới hạnh cụ túc?
Ở đây, này Vāseṭṭha, Tỷ-kheo từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh... do lạc thọ, tâm được định tĩnh... chứng và trú thiền thứ nhất, ... (như kinh Sa-môn quả, đoạn kinh số 43-75).
A disciple goes forth, practises the moralities, attains the first jhāna (as Sutta 2, verses 43-75).
76. Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
76. ‘Then, with his heart filled with loving-kindness, he dwells suffusing one quarter, [251] the second, the third, the fourth. Thus he dwells suffusing the whole world, upwards, downwards, across, everywhere, always with a heart filled with loving-kindness, abundant, unbounded,256 without hate or ill-will.
77. Này Vāseṭṭha, như người lực sĩ thổi tù và khiến tiếng được nghe khắp bốn phương, không có gì khó khăn, cũng vậy này Vāseṭṭha, đối với mọi hình thức của sự sống, không có ai là vị ấy bỏ qua hay bỏ sót mà không biến mãn với tâm giải thoát, câu hữu với từ. Này Vāseṭṭha, đó là con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.
77. ‘Just as if a mighty trumpeter were with little difficulty to make a proclamation to the four quarters, so by this meditation, Vāseṭṭha, by this liberation of the heart through loving-kindness he leaves nothing untouched, nothing unaffected in the sensuous sphere.257 This, Vāseṭṭha, is the way to union with Brahmā.
78. Lại nữa, này Vāseṭṭha, vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
78. ‘Then with his heart filled with compassion,... with sympathetic joy, with equanimity he dwells suffusing one quarter, the second, the third, the fourth. Thus he dwells suffusing the whole world, upwards, downwards, across, everywhere, always with a heart filled with equanimity, abundant, unbounded, without hate or ill-will.
79. Này Vāseṭṭha, như người lực sĩ thổi tù và khiến tiếng được nghe khắp bốn phương, không có gì khó khăn, cũng vậy này Vāseṭṭha, đối với mọi hình thức của sự sống, không có ai là vị ấy bỏ qua hay bỏ sót mà không biến mãn với tâm giải thoát, cùng khởi với xả. Này Vāseṭṭha, đó là con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên.
79. ‘Just as if a mighty trumpeter were with little difficulty to make a proclamation to the four quarters, so by this meditation, Vāsettha, by this liberation of the heart through compassion,... through sympathetic joy,... through equanimity, he leaves nothing untouched, nothing unaffected in the sensuous sphere. This, Vāsettha, is the way to union with Brahmā.
80. Này Vāseṭṭha, Ngươi nghĩ thế nào?
80. ‘What do you think, Vāseṭṭha?
Tỷ-kheo an trú như vậy là có dục ái hay không dục ái? - Tôn giả Gotama, không có dục ái. - Có hận tâm hay không có hận tâm? - Tôn giả Gotama, không có hận tâm. - Có sân tâm hay không có sân tâm? - Tôn giả Gotama, không có sân tâm. - Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm? - Tôn giả Gotama, không có nhiễm tâm. - Có tự tại hay không có tự tại? - Tôn giả Gomata, có tự tại.
Is a monk dwelling thus encumbered with wives and wealth or unencumbered?’ ‘Unencumbered, Reverend Gotama.
81. Này Vāseṭṭha, Ngươi nói Tỷ-kheo không có dục ái, Phạm thiên không có dục ái. Giữa Tỷ-kheo không có dục ái với Phạm thiên không có dục ái, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
He is without hate...,
- Tôn giả Gotama, có thể có được.
without ill-will...,
- Lành thay, Vāseṭṭha. Này Vāseṭṭha, Tỷ-kheo sau khi tâm thân hoại mạng chung sẽ cọng trú với Phạm thiên. Thật có thể có sự kiện ấy.
Này Vāseṭṭha, Ngươi nói Tỷ-kheo không có hận tâm, Phạm thiên không có hận tâm... Tỷ-kheo không có nhiễm tâm, Phạm thiên không có nhiễm tâm. Tỷ-kheo có tự tại, Phạm Thiên có tự tại. Giữa Tỷ-kheo có tự tại với Phạm thiên có tự tại, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
pure and disciplined, Reverend Gotama.’ [252]
- Tôn giả Gotama, có thể có được.
81. ‘Then, Vāseṭṭha, the monk is unencumbered, and Brahmā is unencumbered. Has that unencumbered monk anything in common with the unencumbered Brahmā?’
- Lành thay, Vāseṭṭha. Này Vāseṭṭha, Tỷ-kheo sau khi thân hoại mạng chung sẽ cọng trú với Phạm thiên. Sự kiện ấy thật có thể có.
‘Yes indeed, Reverend Gotama.’
82. Khi nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bharadvāja bạch Thế Tôn:
‘That is right, Vāsettha. Then that an unencumbered monk, after death, at the breaking-up of the body, should attain to union with the unencumbered Brahmā — that is possible.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày.
Likewise a monk without hate..., without ill-will..., pure..., disciplined... Then that a disciplined monk, after death, at the breaking-up of the body, should attain to union with Brahmā
Và nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.
— that is possible.’



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Phật giáo và Con người


Truyện cổ Phật giáo


An Sĩ toàn thư - Khuyên người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ


Tổng quan về Nghiệp

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.98.43 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học