Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp cô độc).
[106] 1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.
Lúc bấy giờ con một của một gia chủ, khả ái, đáng thương, bị mệnh chung. Sau khi nó chết, người cha không còn muốn làm việc, không còn muốn ăn uống, luôn luôn đi đến nghĩa địa, người ấy than khóc: "Con ở đâu, đứa con một của ta? Con ở đâu, đứa con một của ta?"
2. Now on that occasion a certain householder’s dear and beloved only son had died. After his son’s death, he had no more desire to work or to eat. He kept going to the charnel ground and crying: “My only son, where are you? My only son, where are you?”
Rồi người gia chủ ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với người gia chủ đang ngồi một bên:
3. Then that householder went to the Blessed One, and after paying homage to him, sat down at one side. The Blessed One said to him:
-- Này Gia chủ, có phải Ông có các căn để an trú tự tâm ông, có phải các căn của Ông đổi khác?
“Householder, your faculties are not those of one in control of his own mind. Your faculties are deranged.”
-- Bạch Thế Tôn, sao các căn của con có thể không đổi khác được? Bạch Thế Tôn, đứa con một khả ái, đáng thương của con đã mệnh chung. Sau khi nó chết, con không còn muốn làm việc, con không còn muốn ăn uống, con luôn luôn đi đến nghĩa địa và than khóc: "Con ở đâu, đứa con một của ta? Con ở đâu, đứa con một của ta?"
“How could my faculties not be deranged, venerable sir? For my dear and beloved only son has died. Since he died I have no more desire to work or to eat. I keep going to the charnel ground and crying: ‘My only son, where are you? My only son, where are you?’”
-- Sự thật là như vậy, này Gia chủ, vì rằng, này Gia chủ, sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
“So it is, householder, so it is! Sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.”
-- Nhưng đối với ai, bạch Thế Tôn, sự tình sẽ như vậy: "Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái?" Vì rằng, bạch Thế Tôn, hỷ lạc (anandasomanassa) do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
“Venerable sir, who would ever think that sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear? Venerable sir, happiness and joy are born from those who are dear, arise from those who are dear.”
Rồi người gia chủ, không hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, chống báng lại, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Then, displeased with the Blessed One’s words, disapproving of them, the householder rose from his seat and left.
Lúc bấy giờ, một số người đánh bạc đang chơi đổ nhứt lục không xa Thế Tôn bao nhiêu. Người gia chủ kia, đi đến những người đánh bạc ấy, sau khi đến nói với những người ấy như sau:
4. Now on that occasion some gamblers were playing with dice not far from the Blessed One. Then the householder went to those gamblers and said:
-- Này Quý vị, ở đây tôi đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến, đảnh lễ Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên. Này Quý vị, Sa-môn Gotama nói với tôi đang ngồi một bên:
“Just now, sirs, [107] I went to the recluse Gotama, and after paying homage to him, I sat down at one side. When I had done so, the recluse Gotama said to me:
-- "Này Gia chủ, có phải Ông có các căn để an trú tự tâm ông. Có phải các căn của Ông đổi khác?" Này Quý vị, được nghe nói vậy tôi nói với Sa-môn Gotama:
‘Householder, your faculties are not those of one in control of his own mind.’… (repeat the entire conversation as above)…
-- "Bạch Thế Tôn, sao các căn của con có thể không đổi khác được? Bạch Thế Tôn, đứa con một khả ái, đáng thương của con đã mệnh chung. Sau khi nó chết, con không còn muốn làm việc, con không còn muốn ăn uống, con luôn luôn đi đến nghĩa địa và than khóc: "Con ở đâu, đứa con một của ta? Con ở đâu, đứa con một của ta?"
‘Venerable sir, happiness and joy are born from those who are dear, arise from those who are dear.’ Then, displeased with the recluse Gotama’s words, disapproving of them, I rose from my seat and left.”
-- "Sự thật là như vậy, này Gia chủ. Vì rằng, này Gia chủ, sầu, bi, khổ, ưu não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".
-- "Nhưng đối với ai, bạch Thế Tôn, sự tình sẽ như vậy! "Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái". Vì rằng, bạch Thế Tôn, hỷ lạc do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái". Này Quý vị, không hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, ta chống báng lại, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
-- Sự thật là như vậy, này Gia Chủ! Sự thật là như vậy, này Gia chủ! Này Gia chủ, hỷ lạc do ái sanh, hiện hữu từ nơi ái.
“So it is, householder, so it is! Happiness and joy are born from those who are dear, arise from those who are dear.”
Rồi người gia chủ suy nghĩ: "Có sự đồng ý giữa ta và những người đánh bạc", rồi bỏ đi.
Then the householder left thinking: “I agree with the gamblers.”
Và cuộc đối thoại ấy dần dần được truyền đi và truyền đến trong nội cung. Rồi vua Pasenadi xứ Kosala cho gọi hoàng hậu Mallikā:
5. Eventually this story reached the king’s palace. Then King Pasenadi of Kosala told Queen Mallikā:
-- Này Mallikā, đây là lời Sa-môn Gotama nói với các người ấy: "Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".
“This is what has been said by the recluse Gotama, Mallikā: ‘Sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.’”
-- Tâu Ðại vương, nếu Thế Tôn đã dạy như vậy, thì sự việc là như vậy.
“If that has been said by the Blessed One, sire, then it is so.”
-- Ðiều gì Sa-môn Gotama nói, Mallikā này cũng nói theo. Vì Mallikā quá hoan hỷ với Sa-môn Gotama. Vì vị Ðạo sư nói gì cho đệ tử, và đệ tử quá hoan hỷ với vị Ðạo sư nên nói: "Sự thật là vậy, thưa Ðạo sư! Sự thật là như vậy, thưa Ðạo sư". Cũng vậy, này Mallikā, điều gì Sa-môn Gotama nói, Hoàng hậu quá hoan hỷ với Sa-môn Gotama nên đã nói: "Nếu Thế Tôn đã nói như vậy thời sự việc là vậy". Hãy đi đi, Mallikā, hãy đi đi!
“No matter what the recluse Gotama says, Mallikā applauds it thus: ‘If that has been said by the Blessed One, sire, then it is so.’ Just as a pupil applauds whatever his teacher says to him, saying: ‘So it is, teacher, so it is!’; so too, Mallikā, no matter what the recluse Gotama says, you applaud it thus: ‘If that [108] has been said by the Blessed One, sire, then it is so.’ Be off, Mallikā, away with you!”
Rồi hoàng hậu Mallikā cho gọi Bà-la-môn Nāḷijangha và nói:
6. Then Queen Mallikā addressed the brahmin Nāḷijangha:
-- Này Bà-la-môn, hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi có ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú, và thưa: "Bạch Thế Tôn, hoàng hậu Mallikā cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm Thế Tôn có ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú không,
“Come, brahmin, go to the Blessed One and pay homage in my name with your head at his feet, and ask whether he is free from illness and affliction and is healthy, strong, and abiding in comfort, saying: ‘Venerable sir, Queen Mallikā pays homage with her head at the Blessed One’s feet and asks whether the Blessed One is free from illness… and abiding in comfort.’
và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn đã nói như sau: Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái". Và nếu Thế Tôn trả lời Ông như thế nào, hãy khéo nắm giữ và nói lại với ta. Vì các Như Lai không nói phản lại sự thật.
Then say this: ‘Venerable sir, have these words been uttered by the Blessed One: “Sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear”?’ Learn well what the Blessed One replies and report it to me; for Tathāgatas do not speak untruth.”
-- Thưa vâng, tâu Hoàng hậu.
Bà-la-môn Nāḷijangha vâng đáp hoàng hậu Mallikā, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, Và sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Nāḷijangha Bạch Thế Tôn:
“Yes, madam,” he replied, and he went to the Blessed One and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and said:
-- Thưa Tôn giả Gotama, hoàng hậu Mallikā cúi đầu đảnh lễ chân Sa-môn Gotama, hỏi thăm có ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn đã nói như sau: "Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái"?
“Master Gotama, Queen Mallikā pays homage with her head at Master Gotama’s feet and asks whether he is free from illness… and abiding in comfort. And she says this: ‘Venerable sir, have these words been spoken by the Blessed One: “Sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear”?’”
-- Thật sự là như vậy, này Bà-la-môn. Thật sự là như vậy, này Bà-la-môn. Này Bà-la-môn, sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
7. “So it is, brahmin, so it is! Sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này, cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
8. “It can be understood from this, brahmin, how sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.
Này Bà-la-môn, thuở xưa, ở tại Sāvatthī này, bà mẹ của một người đàn bà mệnh chung. Từ khi bà ta mệnh chung, người đàn bà này phát điên cuồng, tâm tư hỗn loạn, đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác và nói: "Người có thấy mẹ tôi đâu không? Người có thấy mẹ tôi đâu không?"
Once in this same Sāvatthī there was a certain woman whose mother died. Owing to her mother’s death, she went mad, lost her mind, and wandered from street to street and from crossroad to crossroad, saying: ‘Have you seen my mother? Have you seen my mother?’ [109]
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này, cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
9–14. “And it can also be understood from this how sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.
Này Bà-la-môn, thuở xưa, ở tại Sāvatthī này, người cha của một người đàn bà mệnh chung..., người anh mệnh chung..., người chị mệnh chung..., người con trai mệnh chung..., người con gái mệnh chung..., người chồng mệnh chung.
Once in this same Sāvatthī there was a certain woman whose father died… whose brother died… whose sister died… whose son died… whose daughter died… whose husband died.
Từ khi người chồng mệnh chung, người đàn bà này phát điên cuồng, tâm tư hỗn loạn, đi từ đường này qua đường khác, đi từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác và nói: "Người có thấy chồng tôi đâu không? Người có thấy chồng tôi đâu không?"
Owing to her husband’s death, she went mad, lost her mind, and wandered from street to street and from crossroad to crossroad, saying: ‘Have you seen my husband? Have you seen my husband?’
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
Này Bà-la-môn, thuở xưa, ở tại Sāvatthī này, người mẹ của một người đàn ông mệnh chung. Từ khi bà ta mệnh chung, người đàn ông này phát điên cuồng, tâm tư hỗn loạn, đi từ đường này qua đường khác, đi từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác và nói: "Người có thấy mẹ tôi đâu không? Người có thấy mẹ tôi đâu không?"
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
15–21. “And it can also be understood from this how sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.
Này Bà-la-môn, thuở xưa, ở tại Sāvatthī này, người cha của một người đàn ông mệnh chung..., người anh mệnh chung..., người chị mệnh chung..., người con trai mệnh chung..., người con gái mệnh chung..., người vợ mệnh chung.
Once in this same Sāvatthī there was a certain man whose mother died… whose father died… whose brother died… whose sister died… whose son died… whose daughter died… whose wife died.
Từ khi người vợ mệnh chung, người đàn ông này phát điên cuồng, tâm tư hỗn loạn, đi từ đường này qua đường khác, đi từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác, và nói: "Người có thấy vợ tôi đâu không? Người có thấy vợ tôi đâu không?"
Owing to his wife’s death, he went mad, lost his mind, and wandered from street to street and from crossroad to crossroad, saying: ‘Have you seen my wife? Have you seen my wife?’
Này Bà-la-môn, đây là một pháp môn, do pháp môn này cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
22. “And it can also be understood from this how sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.
Này Bà-la-môn, thuở xưa chính tại thành Sāvatthī này, một người đàn bà đi về thăm gia đình bà con. Những người bà con ấy của người đàn bà muốn dùng sức mạnh bắt người đàn bà ấy phải xa chồng và muốn gả cho một người đàn ông khác. Người đàn bà ấy không chịu. Rồi người đàn bà ấy nói với chồng mình: "Này Hiền phu, những người bà con này muốn dùng sức mạnh bắt tôi phải xa anh và muốn gả cho một người đàn ông khác. Nhưng tôi không muốn như vậy".
Once in this same Sāvatthī there was a certain woman who went to live with her relatives’ family. Her relatives wanted to divorce her from her husband and give her to another whom she did not want. Then the woman said to her husband: ‘Lord, these relatives of mine want to divorce me from you and give me to another whom I do not want.’
Rồi người ấy chặt người đàn bà ấy làm hai, rồi tự vận, nghĩ rằng: "Hai chúng ta sẽ gặp nhau trong đời sau". Này Bà-la-môn, do pháp môn này cần phải được hiểu rằng sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
Then the man cut the woman in two and [110] disemboweled himself, thinking: ‘We shall be together in the afterlife.’ It can also be understood from this how sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.”
Rồi Bà-la-môn Nāḷijangha hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến hoàng hậu Mallikā, sau khi đến, kể lại cho hoàng hậu Mallikā toàn thể cuộc đàm thoại với Thế Tôn.
23. Then, delighting and rejoicing in the Blessed One’s words, the brahmin Nāḷijangha rose from his seat, went to Queen Mallikā, and reported to her his entire conversation with the Blessed One.
Rồi hoàng hậu Mallikā đi đến vua Pasenadi nước Kosala, và thưa:
24. Then Queen Mallikā went to King Pasenadi of Kosala and asked him:
-- Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Ðại vương có thương công chúa Vajīrī của thiếp không?
“What do you think, sire? Is Princess Vajīrī dear to you?”
-- Phải, này Mallikā, ta thương công chúa Vajīrī.
“Yes, Mallikā, Princess Vajīrī is dear to me.”
-- Tâu đại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho công chúa Vajīrī của Ðại vương. Ðại vương có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
“What do you think, sire? If change and alteration828 took place in Princess Vajīrī, would sorrow, lamentation, pain, grief, and despair arise in you?”
-- Này Mallikā, nếu có sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho công chúa Vajīrī của ta, thì sẽ có một sự thay đổi đến đời sống của ta, làm sao không khởi lên nơi ta, sầu, bi, khổ, ưu, não?
“Change and alteration in Princess Vajīrī would mean an alteration in my life. How could sorrow, lamentation, pain, grief, and despair not arise in me?”
-- Chính liên hệ đến sự tình này, tâu Ðại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái". Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Nữ Sát-đế-lị Vāsabhā, Ðại vương có thương yêu không?
“It was with reference to this, sire, that the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened, said: ‘Sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.’
-- Này Mallikā, ta có thương yêu nữ Sát-đế-lị Vāsabhā.
25–28. “What do you think, sire? Is the noble Queen Vāsabhā dear to you?…
-- Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho nữ Sát-đế-lị Vāsabhā, Ðại vương có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
-- Này Mallikā, nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho nữ Sát-đế-lị Vāsabhā, thì sẽ có một sự đổi khác xảy đến cho đời sống của ta, làm sao không khởi lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu não?
-- Chính liên hệ đến sự tình này, tâu Ðại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".
Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Tướng quân Vidudabha, Ðại vương có thương quý không?
Is General Viḍūḍabha dear to you?… [111]…
-- Này Mallikā, ta có thương quý tướng quân Vidudabha.
-- Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho tướng quân Vidudabha, Ðại vương có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
-- Này Mallikā, nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho tướng quân Vidudabha thì sẽ có sự đổi khác xảy đến cho mạng sống của ta, làm sao không khởi lên nơi ta, sầu, bi, khổ, ưu não?
-- Chính liên hệ đến sự tình này, tâu Ðại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".
Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Ðại vương có yêu thương thiếp không?
Am I dear to you?…
-- Phải, này Mallikā, ta có thương yêu Hoàng hậu.
-- Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho thiếp, Ðại vương có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
-- Này Mallikā, nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho Hoàng hậu, thì sẽ có một sự đổi khác xảy đến cho mạng sống của ta, làm sao không khởi lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu, não?
-- Chính liên hệ đến sự tình này, tâu Ðại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".
Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Ðại vương có yêu thương dân chúng Kasi và Kosala không?
Are Kāsi and Kosala dear to you?”829
-- Phải, này Mallikā, ta thương yêu dân chúng Kasi và Kosala. Này Mallikā, nhờ sức mạnh của họ, chúng ta mới có được gỗ chiên-đàn từ nước Kasi và dùng các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp.
“Yes, Mallikā, Kāsi and Kosala are dear to me. We owe it to Kāsi and Kosala that we use Kāsi sandalwood and wear garlands, scents, and unguents.”
-- Tâu Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho dân chúng Kasi và Kosala, Ðại vương có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu não không?
“What do you think, sire? If change and alteration took place in Kāsi and Kosala, would sorrow, lamentation, pain, grief, and despair arise in you?”
-- Này Mallikā, nếu có một sự biến dịch đổi khác xảy đến cho dân chúng nước Kasi và Kosala, thì sẽ có một sự đổi khác xảy đến cho mạng sống của ta, làm sao không khởi lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu não?
“Change and alteration in Kāsi and Kosala would mean an alteration in my life. How could sorrow, lamentation, pain, grief, and despair not arise in me?”
-- Chính liên hệ đến sự tình này, tâu Ðại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: "Sầu, bi, khổ, ưu não khởi lên do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".
“It was with reference to this, sire, that the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened, said: ‘Sorrow, lamentation, pain, grief, and despair are born from those who are dear, arise from those who are dear.’”
-- Thật vi diệu thay, này Mallikā! Thật hy hữu thay, này Mallikā! Thế Tôn đã thể nhập nhờ trí tuệ, đã thấy nhờ trí tuệ. Ðến đây, Mallikā, hãy sửa soạn tẩy trần.
29. “It is wonderful, Mallikā, it is marvellous how far [112] the Blessed One penetrates with wisdom and sees with wisdom! Come, Mallikā, give me the ablution water.”830
Rồi vua Pasenadi nước Kosala từ chỗ ngồi đứng dậy đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái Thế Tôn và nói lên ba lần lời cảm hứng sau đây: "Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! ".
Then King Pasenadi of Kosala rose from his seat, and arranging his upper robe on one shoulder, he extended his hands in reverential salutation towards the Blessed One and uttered this exclamation three times: “Honour to the Blessed One, accomplished and fully enlightened! Honour to the Blessed One, accomplished and fully enlightened! Honour to the Blessed One, accomplished and fully enlightened!”