Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 81. Kinh Ghatīkāra - 81. Ghaṭīkāra the Potter »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 81. Kinh Ghatīkāra - 81. Ghaṭīkāra the Potter

Donate

Ghatīkāra sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

81. Kinh Ghatīkāra

81. Ghaṭīkāra the Potter

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn đi du hành giữa dân chúng Kosala với đại chúng Tỷ-kheo.
[45] 1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was wandering among the Kosalans together with a large Sangha of bhikkhus.
Rồi Thế Tôn bước xuống bên lề đường, đến tại một địa điểm rồi mỉm cười. Tôn giả Ānanda suy nghĩ: "Do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn lại mỉm cười. Không phải không lý do, Như Lai lại mỉm cười". Rồi Tôn giả Ānanda đắp y về phía một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
2. Then the Blessed One left the main road and, at a certain place, he smiled. It occurred to the venerable Ānanda: “What is the reason, what is the cause, for the Blessed One’s smile? Tathāgatas do not smile for no reason.” So he arranged his upper robe on one shoulder, and extending his hands in reverential salutation towards the Blessed One, asked him:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì Thế Tôn lại mỉm cười? Không phải không lý do, Như Lai lại mỉm cười.
“Venerable sir, what is the reason, what is the cause, for the Blessed One’s smile? Tathāgatas do not smile for no reason.”
-- Thuở xưa này Ānanda, tại địa điểm này là một thị trấn tên là Vebhalinga, phồn thịnh, giàu có và dân cư đông đúc. Này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sống ở đây, dựa vào thị trấn Vebhalinga. Ở đây, này Ānanda, là tu viện của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Chính tại đây, này Ānanda. Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ngồi giảng dạy cho chúng Tỷ-kheo.
3. “Once, Ānanda, in this place there was a prosperous and busy market town called Vebhalinga, with many inhabitants and crowded with people. Now the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, lived near the market town Vebhalinga. It was here, in fact, that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, had his monastery; it was here, in fact, that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, sat and advised the Sangha of bhikkhus.”
Rồi Tôn giả Ānanda gấp tư y sanghati (tăng-già-lê), trải ra rồi bạch Thế Tôn:
4. Then the venerable Ānanda folded his patchwork cloak in four, and spreading it out, said to the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, thỉnh Thế Tôn ngồi xuống. Chính tại địa điểm này, hai bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sẽ sử dụng.
“Then, venerable sir, let the Blessed One be seated. Thus this place will have been used by two Accomplished Ones, Fully Enlightened Ones.”
Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
The Blessed One sat down on the seat that had been made ready and addressed the venerable Ānanda thus:
-- Thuở xưa, này Ānanda, tại địa điểm này là thị trấn tên Vebhalinga, phồn thịnh, giàu có và dân cư đông đúc. Này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã sống dựa vào thị trấn Vebhalinga. Chính tại đây, này Ānanda, là tu viện của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Chính tại đây, này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ngồi giảng dạy cho chúng Tỷ-kheo.
5. “Once, Ānanda, in this place there was a prosperous and busy market town called Vebhalinga, with many inhabitants and crowded with people. Now the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, lived near the market town Vebhalinga. It was here, in fact, that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, had his monastery; it was here, in fact, that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, sat [46] and advised the Sangha of bhikkhus.
Này Ānanda, chính tại thị trấn Vebhalinga, có người thợ làm đồ gốm tên là Ghaṭīkāra, người này là người đàn tín của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vị đàn tín đệ nhất. Thanh niên Jotipāla là người bạn chí thân của thợ gốm Ghaṭīkāra.
6. “In Vebhalinga the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, had as a supporter, as his chief supporter, a potter named Ghaṭīkāra. Ghaṭīkāra the potter had as a friend, as his close friend, a brahmin student named Jotipāla.790
Rồi này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra nói với thanh niên Jotipāla:
“One day the potter Ghaṭīkāra addressed the brahmin student Jotipāla thus:
"-- Này bạn Jotipāla, chúng ta hãy đi. Chúng ta hãy đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật là tốt lành cho tôi được đến yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy".
‘My dear Jotipāla, let us go and see the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened. I hold that it is good to see that Blessed One, accomplished and fully enlightened.’
Khi nghe nói vậy, này Ānanda, thanh niên Jotipāla nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:
The brahmin student Jotipāla replied:
"-- Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra, yết kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để làm gì?"
‘Enough, my dear Ghaṭīkāra, what is the use of seeing that bald-pated recluse?’791
Lần thứ hai, này Ānanda... Lần thứ ba, này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra nói với thanh niên Jotipāla:
“A second and third time the potter Ghaṭīkāra said:
"-- Này bạn Jotipāla, chúng ta hãy đi. Chúng ta hãy đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật là tốt lành cho tôi được đến yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy".
‘My dear Jotipāla, let us go and see the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened. I hold that it is good to see that Blessed One, accomplished and fully enlightened.’
Lần thứ ba này Ānanda, thanh niên Jotipāla nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:
And a second and a third time the brahmin student Jotipāla replied:
"-- Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra, yết kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để làm gì?"
‘Enough, my dear Ghaṭīkāra, what is the use of seeing that bald-pated recluse?’
"-- Vậy này bạn Jotipāla, hãy cầm đồ gãi lưng và bột tắm, chúng ta hãy đi đến sông để tắm".
— ‘Then, my dear Jotipāla, let us take a loofah and bath powder and go to the river to bathe.’
"-- Thưa bạn, vâng".
Này Ānanda, thanh niên Jotipāla vâng đáp thợ gốm Ghaṭīkāra như vậy.
— ‘Very well,’ Jotipāla replied.
Thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla lấy đồ gãi lưng và bột tắm, đi đến sông để tắm. Rồi này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra nói với thanh niên Jotipāla:
7. “So the potter Ghaṭīkāra and the brahmin student Jotipāla took a loofah and bath powder and went to the river to bathe. Then Ghaṭīkāra said to Jotipāla:
"-- Này bạn Jotipāla, chỗ này cách tu viện Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không bao xa. Này bạn Jotipāla, chúng ta hãy đi. Chúng ta hãy đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật là tốt lành cho tôi được đến yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy". Khi nghe nói vậy, này Ānanda, thanh niên Jotipāla nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:
‘My dear Jotipāla, there is the monastery of the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, quite nearby. Let us go and see the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened. I hold that it is good to see that Blessed One, accomplished and fully enlightened.’ Jotipāla replied:
"-- Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra, yết kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để làm gì?"
‘Enough, my dear Ghaṭīkāra, what is [47] the use of seeing that bald-pated recluse?’
Lần thứ hai, này Ānanda, ...lần thứ ba này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra nói với thanh niên Jotipāla:
"-- Này bạn Jotipāla, chỗ này cách tu viện của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không bao xa. Này bạn Jotipāla, chúng ta hãy đi. Chúng ta hãy đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật là tốt lành cho tôi được yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy".
“A second and a third time Ghaṭīkāra said: ‘My dear Jotipāla, there is the monastery of the Blessed One Kassapa… ’
Lần thứ ba, này Ānanda, thanh niên Jotipāla nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:
And a second and a third time the brahmin student Jotipāla replied:
"-- Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra, yết kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để làm gì?"
‘Enough, my dear Ghaṭīkāra, what is the use of seeing that bald-pated recluse?’
Rồi này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra nắm lấy thanh niên Jotipāla ở nơi cổ tay áo và nói:
8. “Then the potter Ghaṭīkāra seized the brahmin student Jotipāla by the belt and said:
"-- Này bạn Jotipāla, chỗ này cách tu viện Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không bao xa. Này bạn Jotipāla, chúng ta hãy đi. Chúng ta hãy đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật là tốt lành cho tôi được yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy".
‘My dear Jotipāla, there is the monastery of the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, quite nearby. Let us go and see the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened. I hold that it is good to see that Blessed One, accomplished and fully enlightened.’
Rồi này Ānanda, sau khi gỡ thoát cổ áo, thanh niên Jotipāla nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:
Then the brahmin student Jotipāla undid his belt and said:
"-- Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra, yết kiến vị Sa-môn đầu trọc ấy để làm gì?
‘Enough, my dear Ghaṭīkāra, what is the use of seeing that bald-pated recluse?’
Rồi thợ gốm Ghaṭīkāra nắm lấy tóc vừa mới tắm xong của thanh niên Jotipāla và nói:
9. “Then, when the brahmin student Jotipāla had washed his head, the potter Ghaṭīkāra seized him by the hair and said:792
"-- Này bạn Jotipāla, chỗ này cách tu viện của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không bao xa. Này bạn Jotipāla chúng ta hãy đi, chúng ta hãy đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật là tốt lành cho tôi được yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác".
‘My dear Jotipāla, there is the monastery of the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, quite nearby. Let us go and see the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened. I hold that it is good to see that Blessed One, accomplished and fully enlightened.’
Rồi này Ānanda, thanh niên Jotipāla suy nghĩ như sau: "Thật là vi diệu! Thật là hy hữu! Thợ gốm Ghaṭīkāra tuy sanh thuộc hạ cấp, lại dám nghĩ có thể nắm lấy tóc của ta, dầu ta vừa mới gội đầu, chắc việc này không phải là tầm thường", rồi nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:
“Then the brahmin student Jotipāla thought: ‘It is wonderful, it is marvellous that this potter Ghaṭīkāra, who is of an inferior birth, should presume to seize me by the hair when we have washed our heads! Surely this can be no simple matter.’ And he said to the potter Ghaṭīkāra:
"-- Này bạn Ghaṭīkāra, có thật sự là cần thiết không?"
‘You go as far as this, my dear Ghaṭīkāra?’
"-- Này bạn Jotipāla, thật sự là cần thiết. Thật là tốt lành cho tôi được yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác".
— ‘I go as far as this, my dear Jotipāla; for so much [48] do I hold that it is good to see that Blessed One, accomplished and fully enlightened!’
"-- Vậy bạn Ghaṭīkāra, hãy thả (tay) ra. Chúng ta sẽ đi".
— ‘Then, my dear Ghaṭīkāra, let go of me. Let us visit him.’
Rồi này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla cùng đi đến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Sau khi đến, thợ gốm Ghaṭīkāra đảnh lễ Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác rồi ngồi xuống một bên. Còn thanh niên Jotipāla thời nói lên những lời cháo đón hỏi thăm với Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra bạch Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
10. “So Ghaṭīkāra the potter and Jotipāla the brahmin student went to the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened. Ghaṭīkāra, after paying homage to him, sat down at one side, while Jotipāla exchanged greetings with him, and when this courteous and amiable talk was finished, he too sat down at one side. Ghaṭīkāra then said to the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened: ‘Venerable sir, this is the brahmin student Jotipāla, my friend, my close friend. Let the Blessed One teach him the Dhamma.’
"-- Bạch Thế Tôn, đây là thanh niên Jotipāla, bạn của con, bạn thân tình của con. Mong Thế Tôn thuyết pháp cho bạn con". Rồi này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với pháp thoại khích lệ làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla. Rồi này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla, sau khi được Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác với pháp thoại, khích lệ, làm cho thích thú, phấn khởi, hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
“Then the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, instructed, urged, roused, and gladdened Ghaṭīkāra the potter and Jotipāla the brahmin student with an exposition of the Dhamma. At the conclusion of the exposition, having delighted and rejoiced in the Blessed One Kassapa’s words, they rose from their seats, and after paying homage to the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, keeping him on their right, they departed.
Rồi này Ānanda, thanh niên Jotipāla nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:
11. “Then Jotipāla asked Ghaṭīkāra:
"-- Này bạn Ghaṭīkāra, khi nghe pháp này, vì sao bạn không xuất gia?"
‘Now that you have heard this Dhamma, my dear Ghaṭīkāra, why don’t you go forth from the home life into homelessness?’
"-- Này bạn Jotipāla, bạn không biết tôi sao? Tôi phải nuôi dưỡng cha mẹ già và mù lòa".
— ‘My dear Jotipāla, don’t you know that I support my blind and aged parents?’
"-- Vậy này bạn Ghaṭīkāra, tôi sẽ xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình".
— ‘Then, my dear Ghaṭīkāra, I shall go forth from the home life into homelessness.’
Rồi này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla đi đến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, này Ānanda, thợ gốm Ghaṭīkāra bạch Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
12. “So Ghaṭīkāra the potter and Jotipāla the brahmin student went to the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened. [49] After paying homage to him, they sat down at one side and Ghaṭīkāra the potter said to the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened:
"-- Bạch Thế Tôn, đây là thanh niên Jotipāla, bạn của con, bạn thân tình của con. Mong Thế Tôn xuất gia cho bạn con". Và này Ānanda, thanh niên Jotipāla được Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác cho xuất gia, cho thọ đại giới. Rồi này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
‘Venerable sir, this is the brahmin student Jotipāla, my friend, my close friend. Let the Blessed One give him the going forth.’ And the brahmin student Jotipāla received the going forth from the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, and he received the full admission.793
Sau khi thanh niên Jotipāla xuất gia chưa bao lâu, sau nửa tháng, sau khi ở tại Vebhalinga lâu cho đến khi thấy tự thỏa mãn, liền du hành đi đến Baranasi. Ngài tuần tự du hành và đến tại Baranasi (Ba-la-nại). Rồi này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chành Ðẳng Giác trú tại Baranasi, ở Isipatana, vườn Lộc Uyển.
13. “Then not long after Jotipāla the brahmin student had received the full admission, a half-month after he had received the full admission, the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, having stayed at Vebhalinga as long as he chose, set out to wander towards Benares. Wandering by stages, he eventually arrived at Benares, and there he went to live in the Deer Park at Isipatana.
Này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi được nghe như sau: "Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến Baranasi, trú tại Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này Ānanda, Kikī, vua nước Kāsi cho thắng các cỗ xe tối thù thắng, sau khi tự mình leo lên một cỗ xe thù thắng với các cỗ xe thù thắng đi ra khỏi thành Baranasi với đại uy vệ của nhà vua để yết kiến Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
14. “Now King Kikī of Kāsi heard: ‘It seems that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, has reached Benares and is living in the Deer Park at Isipatana.’ So he had a number of state carriages made ready, and mounting a state carriage, drove out from Benares with the full pomp of royalty in order to see the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened.
Vua đi xe cho đến chỗ nào còn đi được xe, rồi xuống xe đi bộ, đi đến chỗ Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vua ngồi xuống một bên. Này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác với pháp thoại, khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ Kikī, vua xứ Kāsi, đang ngồi một bên. Rồi Kikī, vua xứ Kāsi, sau khi được Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
He went thus as far as the road was passable for carriages, and then he got down from his carriage and went forward on foot to the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened. After paying homage to him, he sat down at one side and the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, instructed, urged, roused, and gladdened King Kikī of Kāsi with an exposition of the Dhamma.
15. “At the conclusion of the exposition, King Kikī of Kāsi said: [50]
"-- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời con mời ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo".
‘Venerable sir, let the Blessed One together with the Sangha of bhikkhus consent to accept tomorrow’s meal from me.’
Và này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác im lặng nhận lời. Rồi này Ānanda, sau khi được biết Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nhận lời, Kikī, vua xứ Kāsi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
And the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, accepted in silence. Then, knowing that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, had accepted, he rose from his seat and after paying homage to him, keeping him on his right, he departed.
Và này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi, sau khi đêm ấy đã mãn, tại trú xứ của mình, cho bày biện các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm, cơm vàng khô, các loại cari, các hột đen được gạn bỏ, và các món ăn gia vị, rồi báo thời giờ cho Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được biết:
16. “Then, when the night had ended, King Kikī of Kāsi had good food of various kinds prepared in his own dwelling — red rice stored in the sheaf with the dark grains picked out, along with many sauces and curries — and he had the time announced to the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, thus:
"-- Bạch Thế Tôn giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng".
‘It is time, venerable sir, the meal is ready.’
Rồi này Ānanda, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của Kikī, vua xứ Kāsi, sau khi đến, liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Rồi này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi tự tay thân hầu và làm cho thỏa mãn chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm. Rồi này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi, khi Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã ăn xong, tay đã rời khỏi bát, lấy một ghế thấp rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi, bạch Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
17. “Then, it being morning, the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, dressed, and taking his bowl and outer robe, he went with the Sangha of bhikkhus to the dwelling of King Kikī of Kāsi and sat down on the seat made ready. Then, with his own hands, King Kikī of Kāsi served and satisfied the Sangha of bhikkhus headed by the Buddha with the various kinds of good food. When the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, had eaten and had put his bowl aside, King Kikī of Kāsi took a low seat, sat down at one side and said:
"-- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con an cư mùa mưa tại Baranasi; sẽ có sự cúng dường như vậy cho chúng Tỷ-kheo".
‘Venerable sir, let the Blessed One accept from me a residence for the Rains in Benares; there will be such service to the Sangha.’
"-- Thôi vừa rồi, Ðại vương, Ta đã nhận lời an cư mùa mưa rồi."
— ‘Enough, king, my residence for the Rains has already been provided for.’
Lần thứ hai, này Ānanda,... Lần thứ ba, này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi, bạch Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
“A second and a third time King Kikī of Kāsi said:
"-- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con, an cư mùa mưa tại Baranasi; sẽ có sự cúng dường như vậy cho chúng Tỷ-kheo".
‘Venerable sir, let the Blessed One accept from me a residence for the Rains in Benares; that will be helpful for the Sangha.’
"-- Thôi vừa rồi, Ðại vương, Ta đã nhận lời an cư trong mùa mưa rồi".
— ‘Enough, king, my residence for the Rains has already been provided for.’
Rồi này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi, suy nghĩ như sau: "Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không nhận lời mời của ta an cư mùa mưa ở Baranasi", vì vậy cảm thấy thất vọng, ưu phiền.
“The king thought: ‘The Blessed One Kassapa, [51] accomplished and fully enlightened, does not accept from me a residence for the Rains in Benares,’ and he was very disappointed and sad.
Rồi này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi, bạch Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác:
18. “Then he said:
"-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có người đàn tín hộ trì hơn con?"
‘Venerable sir, have you a better supporter than I am?’
"-- Ðại vương, có một thị trấn tên là Vebhalinga. Tại đấy có thợ gốm tên là Ghaṭīkāra. Người ấy là đàn tín hộ trì của Ta, một đàn tín hộ trì tối thượng. Ðại vương, Ðại vương có nghĩ như sau:
— ‘I have, great king. There is a market town called Vebhalinga where a potter named Ghaṭīkāra lives. He is my supporter, my chief supporter. Now you, great king, thought:
"Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không nhận lời mời của ta an cư mùa mưa ở Baranasi", do vậy, Ðại vương cảm thấy thất vọng, ưu phiền.
“The Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, does not accept from me a residence for the Rains in Benares,” and you were very disappointed and sad; but the potter Ghaṭīkāra is not and will not be so.
Nhưng thợ gốm Ghaṭīkāra không có như vậy, và không sợ như vậy. Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói láo, từ bỏ rượu men, rượu nấu.
The potter Ghaṭīkāra has gone for refuge to the Buddha, the Dhamma, and the Sangha. He abstains from killing living beings, from taking what is not given, from misconduct in sensual pleasures, from false speech, and from wine, liquor, and intoxicants, which are the basis of negligence.
Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra thành tựu lòng tin bất thối chuyển đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng, thành tựu các giới được bậc Thánh ái lạc. Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra không có nghi ngờ đối với Khổ, không có nghi ngờ đối với Khổ tập, không có nghi ngờ đối với Khổ diệt, không có nghi ngờ đối với Con Ðường đưa đến khổ diệt.
He has unwavering confidence in the Buddha, the Dhamma, and the Sangha, and he possesses the virtues loved by noble ones. He is free from doubt about suffering, about the origin of suffering, about the cessation of suffering, and about the way leading to the cessation of suffering.
Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra, ăn một ngày một bữa, sống Phạm hạnh, có giới hạnh, theo thiện pháp. Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra từ bỏ ngọc và vàng, không có vàng và bạc. Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra không có tự tay đào đất hay đào với cái cuốc. Vị này vui lòng làm thành ghè bát với đất lấy từ bờ đê bị sập xuống hay do chuột và chó đào lên, và nói như sau:
He eats only one meal a day, he observes celibacy, he is virtuous, of good character. He has laid aside gems and gold, he has given up gold and silver. He does not dig the ground for clay with a pick or with his own hands; what has broken off riverbanks or is thrown up by rats, he brings home in a carrier; when he has made a pot he says:
"Ở đây, nếu ai muốn, hãy bỏ vào từng nhúm các loại gạo có vỏ, từng nhúm các loại đậu que (mugga), từng nhúm các loại đậu hột (kalaya), và có thể lấy cái gì mình muốn". Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra nuôi dưỡng cha mẹ già và mù lòa. Này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn từ chỗ ấy, không phải trở lui đời này nữa.
“Let anyone who likes set down some selected rice or selected beans or selected lentils, and let him take away whatever he likes.”794 He supports his blind and aged parents. [52] Having destroyed the five lower fetters, he is one who will reappear spontaneously [in the Pure Abodes] and there attain final Nibbāna without ever returning from that world.
"Một thời, này Ðại vương, Ta ở tại thị trấn Vabhalinga. Rồi này Ðại vương, Ta vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến cha mẹ của thợ gốm Ghaṭīkāra, sau khi đến nói với cha mẹ thợ gốm Ghaṭīkāra như sau:
19. “‘On one occasion when I was living at Vebhalinga, it being morning, I dressed, and taking my bowl and outer robe, I went to the potter Ghaṭīkāra’s parents and asked them:
"-- Người thợ làm đồ gốm đi đâu?"
“Where has the potter gone, please?”
"-- Bạch Thế Tôn, người đàn tín hộ trì cho Thế Tôn đã đi khỏi và có dặn như sau: Hãy lấy cháo từ nơi nồi, hãy lấy đồ ăn từ nơi chảo mà dùng".
— “Venerable sir, your supporter has gone out; but take rice from the cauldron and sauce from the saucepan and eat.”
"Rồi Ta, này Ðại vương, sau khi lấy cháo từ nơi nồi, lấy đồ ăn từ nơi chảo, ăn xong, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi đi. Rồi này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra đi đến cha mẹ, sau khi đến, nói với cha mẹ như sau:
“‘I did so and went away. Then the potter Ghaṭīkāra went to his parents and asked:
"-- Ai đã lấy cháo từ nơi nồi, lấy đồ ăn từ nơi chảo, ăn xong, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi đi?"
“Who has taken rice from the cauldron and sauce from the saucepan, eaten and gone away?”
"-- Này con, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi lấy cháo từ nơi nồi, lấy đồ ăn từ nơi chảo, ăn xong, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi đi".
— “My dear, the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, did.”
"Rồi này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra suy nghĩ như sau:
“‘Then the potter Ghaṭīkāra thought:
"Thật là lợi ích cho ta, thật là khéo lợi ích cho ta, đã được Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tin tưởng ta như vậy". Rồi này Ðại vương, cho đến nửa tháng, hỷ lạc không rời khỏi thợ gốm Ghaṭīkāra, hay cho đến một tuần (không rời khỏi) cha mẹ (người thợ gốm).
“It is a gain for me, it is a great gain for me that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, has so much trust in me!” And rapture and happiness never left him for a half-month or his parents for a week.
20. “‘On another occasion when I was living at Vebhalinga, it being morning, I dressed, and taking my bowl and outer robe, I went to the potter Ghaṭīkāra’s parents and asked them: “Where has the potter gone, please?” — “Venerable sir, your supporter has gone out; but take some porridge from the vessel and sauce from the saucepan and eat.”
“‘I did so [53] and went away. Then the potter Ghaṭīkāra went to his parents and asked: “Who has taken porridge from the vessel and sauce from the saucepan, eaten and gone away?” — “My dear, the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, did.”
“‘Then the potter Ghaṭīkāra thought: “It is a gain for me, it is a great gain for me that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, has so much trust in me!” And rapture and happiness never left him for a half-month or his parents for a week.
"Một thời, này Ðại Vương. Ta trú ở thị trấn Vebhalinga, lúc bấy giờ, các cốc bị mưa dột, rồi Ta, này Ðại vương, gọi các Tỷ-kheo:
21. “‘On another occasion when I was living at Vebhalinga my hut leaked. Then I addressed the bhikkhus thus:
"-- Hãy đi, này các Tỷ-kheo, và xem tại nhà của thợ gốm Ghaṭīkāra có cỏ hay không?
“Go, bhikkhus, and find out if there is any grass at the potter Ghaṭīkāra’s house.”
"Khi được nghe nói vậy, này Ðại vương, các Tỷ-kheo bạch với Ta: "-- Bạch Thế Tôn, tại nhà của thợ gốm Ghaṭīkāra không có cỏ, nhưng nhà người ấy có mái cỏ".
— “Venerable sir, there is no grass at the potter Ghaṭīkāra’s house; there is the grass thatch over his workshop.”
"-- Này các Tỷ-kheo, hãy đi và rút cỏ từ ngôi nhà thợ gốm Ghaṭīkāra.
— “Go, bhikkhus, and remove the grass from the potter Ghaṭīkāra’s workshop.”
"Rồi này Ðại vương, các Tỷ-kheo ấy rút cỏ từ ngôi nhà thợ gốm Ghaṭīkāra. Này Ðại vương, cha mẹ thợ gốm Ghaṭīkāra nói với các Tỷ-kheo ấy:
“‘They did so. Then the potter Ghaṭīkāra’s parents asked the bhikkhus:
"-- Quý vị là ai lại rút cỏ ngôi nhà?"
“Who is removing the grass from the workshop?”
"-- Này Ðại tỷ, ngôi nhà của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác bị mưa dột".
— “Sister, the hut of the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, is leaking.”
"-- Hãy lấy đi, chư Hiền giả! Hãy lấy đi, chư Hiền giả!"
— “Take it, venerable sirs, take it, dear ones!”
"Rồi này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra đi đến cha mẹ, sau khi đến thưa với cha mẹ như sau:
“‘Then the potter Ghaṭīkāra went to his parents and asked:
"-- Những ai đã rút cỏ khỏi ngôi nhà?"
“Who has removed the grass from the workshop?”
"-- Này Con, các Tỷ-kheo có nói: Ngôi nhà của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác bị mưa dột".
— “The bhikkhus did, my dear; the hut of the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, is leaking.”
"Rồi này Ðại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra suy nghĩ như sau:
“‘Then the potter Ghaṭīkāra thought:
"Thật là lợi ích cho ta, thật là khéo lợi ích cho ta đã được Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tin tưởng ta như vậy".
“It is a gain for me, it is a great gain for me that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, has so much trust in me!”
"Rồi này Ðại vương, cho đến nửa tháng, hỷ lạc không rời khỏi thợ gốm Ghaṭīkāra, hay cho đến một tuần, (không rời khỏi) cha mẹ thợ gốm. Rồi suốt cả ba tháng trời, ngôi nhà đứng lấy bầu trời làm mái, nhưng không có mưa rơi vào. Và như vậy, này Ðại vương, là người thợ gốm Ghaṭīkāra.
And [54] the rapture and happiness never left him for a half-month or his parents for a week. Then that workshop remained three whole months with the sky for a roof, and yet no rain came in. Such is the potter Ghaṭīkāra.’
"-- Lợi ích thay, bạch Thế Tôn, cho thợ gốm Ghaṭīkāra; thật khéo lợi ích thay, bạch Thế Tôn cho thợ gốm Ghaṭīkāra, đã được Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tin tưởng!"
“‘It is a gain for the potter Ghaṭīkāra, it is a great gain for him that the Blessed One Kassapa, accomplished and fully enlightened, relies on him thus.’
Rồi này Ānanda, Kikī, vua xứ Kāsi, cho người đưa đến thợ gốm Ghaṭīkāra, khoảng năm trăm xe gạo có vỏ, gạo vàng khô và các món đồ ăn. Rồi này Ānanda, những người nhà vua cử đi đến thợ gốm Ghaṭīkāra và nói:
22. “Then King Kikī of Kāsi dispatched to the potter Ghaṭīkāra five hundred cartloads of red rice stored in the sheaf, and also sauce materials to go with it. Then the king’s men went to the potter Ghaṭīkāra and told him:
"-- Này Tôn giả, năm trăm xe gạo có vỏ, gạo vàng khô và các món đồ ăn này, do Kikī, vua xứ Kāsi, gởi đến cho Tôn giả, mong Tôn giả hãy nhận lấy".
‘Venerable sir, there are five hundred cartloads of red rice stored in the sheaf, and also sauce materials to go with it, dispatched to you by King Kikī of Kāsi; please accept them.
"-- Nhà vua rất nhiều phận sự, rất nhiều việc cần phải làm. Thật là vừa đủ cho tôi, được nhà vua nghĩ đến như thế này".
— ‘The king is very busy and has much to do. I have enough. Let this be for the king himself.’795
-- Này Ānanda, rất có thể Ông suy nghĩ như sau: "Lúc bây giờ, thanh niên Jotipāla có thể là một người khác". Nhưng này Ānanda, chớ có nghĩ như vậy. Lúc bấy giờ, Ta chính là thanh niên Jotipāla.
23. “Now, Ānanda, you may think thus: ‘Certainly, someone else was the brahmin student Jotipāla on that occasion.’ But it should not be regarded thus. I was the brahmin student Jotipāla on that occasion.”
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. The venerable Ānanda was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.





_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Đừng bận tâm chuyện vặt


Truyện cổ Phật giáo


Báo đáp công ơn cha mẹ


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự giết hại

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.218.63.176 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học