Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Mahā Moggallāna trú giữa dân chúng Bhagga, tại Suṁsumāragira, rừng Bhesakaḷāvana, vườn Lộc Uyển.
[332] 1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the venerable Mahā Moggallāna was living in the Bhagga country at Suṁsumāragira in the Bhesakaḷā Grove, the Deer Park.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahā Moggallāna đang đi kinh hành ngoài trời. Khi ấy Ác ma đi vào bụng Tôn giả Mahā Moggallāna, ở trong bao tử. Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna nghĩ như sau: "Nay sao bụng của Ta lại nặng nặng như có gì chồng chất quá đầy?" Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna từ chỗ kinh hành bước xuống, đi vào tự viện, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
2. Now on that occasion the venerable Mahā Moggallāna was walking up and down in the open. And on that occasion Māra the Evil One went into the venerable Mahā Moggallāna’s belly and entered his bowels. Then the venerable Mahā Moggallāna considered thus: “Why is my belly so heavy? One would think it full of beans.” Thus he left the walk and went into his dwelling, where he sat down on a seat made ready.
Sau khi ngồi, Tôn giả Mahā Moggallāna tự chánh niệm. Tôn giả Mahā Moggallāna thấy Ác ma, sau khi đi vào trong bụng, đang ở trong bao tử. Thấy vậy, Tôn giả liền nói với Ác ma:
3. When he had sat down, he gave thorough attention to himself, and he saw that Māra the Evil One had gone into his belly and had entered his bowels. When he saw this, he said:
-- Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!
“Come out, Evil One! Come out, Evil One! Do not harass the Tathāgata, do not harass the Tathāgata’s disciple, or it will lead to your harm and suffering for a long time.”
Rồi Ác ma suy nghĩ: "Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau: "Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai, và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài". Chính vị Bổn sư cũng chưa biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?"
4. Then Māra the Evil One thought: “This recluse does not know me, he does not see me when he says that. Even his teacher would not know me so soon, so how can this disciple know me?”
Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna lại nói với Ác ma như sau:
5. Then the venerable Mahā Moggallāna said:
-- Này Ác ma, ta biết Ngươi. Ðừng có nghĩ rằng: "Vị ấy không biết ta". Ngươi là Ác ma. Này Ác ma, Ngươi nghĩ như sau: "Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau: "Hãy đi ra, Ác ma! hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!" Chính vị Bổn sư cũng không biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?"
“Even thus I know you, Evil One. Do not think: ‘He does not know me.’ You are Māra, Evil One. You were thinking thus, Evil One: ‘This recluse does not know me, he does not see me when he says that. Even his teacher would not know me so soon, so how can this disciple know me?’”
Rồi Ác ma suy nghĩ như sau: "Vị Sa-môn này biết ta, thấy ta và nói như sau: "Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài"". Rồi Ác ma từ miệng Tôn giả Mahā Moggallāna bước ra, và đứng dựa nơi cửa miệng.
6. Then Māra the Evil One thought: “The recluse knew me, he saw me when he said that,” whereupon he [333] came up from the venerable Mahā Moggallāna’s mouth and stood against the door bar.
Tôn giả Mahā Moggallāna thấy Ác ma đứng dựa nơi cửa miệng, bèn nói Ác ma:
7. The venerable Mahā Moggallāna saw him standing there and said:
-- Ác ma, ở đây, ta cũng thấy Ngươi. Ngươi chớ có nghĩ rằng: "Vị ấy không thấy ta". Này Ác ma, nay Ngươi đang đứng dựa nơi cửa miệng.
“I see you there too, Evil One. Do not think: ‘He does not see me.’ You are standing against the door bar, Evil One.
Này Ác ma, thuở xưa, ta là Ác ma tên là Dūsī, và chị ta tên là Kālī. Ngươi là con trai chị ta. Như vậy Ngươi là cháu ta.
8. “It happened once, Evil One, that I was a Māra named Dūsī,517 and I had a sister named Kālī. You were her son, so you were my nephew.
Này Ác ma, lúc bấy giờ, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có hai vị đệ tử tên là Vidhura, và Sañjīva, hai bậc tối thượng, hai bậc Hiền giả.
9. “Now on that occasion the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, had appeared in the world.518 The Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, had an auspicious pair of chief disciples named Vidhura and Sañjīva.
Này Ác ma, đối với các vị đệ tử của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không một ai ở đây có thể bằng Tôn giả Vidhura về thuyết pháp. Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Vidhura được gọi là Vidhura (Vô song).
Among all the disciples of the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, there was none equal to the venerable Vidhura in teaching the Dhamma. That was how the venerable Vidhura came to have the designation ‘Vidhura.’519
Còn Tôn giả Sañjīva là vị đi rừng, đi gốc cây, đi các chỗ không người và chứng Diệt thọ tưởng định không khó khăn gì.
But the venerable Sañjīva, gone to the forest or to the root of a tree or to an empty hut, entered without difficulty upon the cessation of perception and feeling.
Này Ác ma, thuở xưa, Tôn giả Sañjīva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây. Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sañjīva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây, thấy vậy liền nói với nhau như sau: "Thật vị diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi. Chúng ta hãy hỏa táng ngài!" Rồi này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành liền thâu lượm cỏ, củi và phân bò chồng lên thân Tôn giả Sañjīva, đốt lửa và bỏ đi.
10. “It happened once, Evil One, that the venerable Sañjīva had seated himself at the root of a certain tree and entered upon the cessation of perception and feeling. Some cowherds, shepherds, ploughmen, and travellers saw the venerable Sañjīva sitting at the root of the tree having entered upon the cessation of perception and feeling, and they thought: ‘It is wonderful, sirs, it is marvellous! This recluse died while sitting. Let us cremate him.’ Then the cowherds, shepherds, ploughmen, and travellers collected grass, wood, and cowdung, and having piled it up against the venerable Sañjīva’s body, they set fire to it and went on their way.
Này Ác ma, Tôn giả Sañjīva, sau khi đêm ấy đã tàn, liền xuất định, phủi áo, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào làng khất thực. Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sañjīva đang đi khất thực, thấy vậy liền nghĩ: "Thật vị diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi, nay được sống lại". Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Sañjīva được xưng danh là Sañjīva, Sañjīva.
11. “Now, Evil One, when the night had ended, the venerable Sañjīva emerged from the attainment.520 He shook his robe, and then, it being morning, he dressed, and taking his bowl and outer robe, he went into the village for alms. The cowherds, shepherds, ploughmen, and travellers saw the venerable Sañjīva wandering for alms, and they thought: ‘It is wonderful, sirs, it is marvellous! This recluse who died while sitting has come back to life!’ [334] That was how the venerable Sañjīva came to have the designation ‘Sañjīva.’521
Này Ác ma, rồi Ác ma Dūsī nghĩ như sau: "Ta không biết chỗ đến và chỗ đi của các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp này. Vậy nay ta hãy nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và nói như sau: "Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ. "
12. “Then, Evil One, the Māra Dūsī considered thus: ‘There are these virtuous bhikkhus of good character, but I do not know their coming or their going. Let me now take possession of the brahmin householders, telling them: “Come now, abuse, revile, scold, and harass the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are abused, reviled, scolded, and harassed by you, some change will come about in their minds whereby the Māra Dūsī may find an opportunity.”’522
13. “Then, Evil One, the Māra Dūsī took possession of those brahmin householders, telling them: ‘Come now, abuse, revile, scold, and harass the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are abused, reviled, scolded, and harassed by you, some change will come about in their minds whereby the Māra Dūsī may find an opportunity.’
Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh như sau: "Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: "Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền" và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền.
Then, when the Māra Dūsī had taken possession of the brahmin householders, they abused, reviled, scolded, and harassed the virtuous bhikkhus of good character thus:523 ‘These bald-pated recluses, these swarthy menial offspring of the Kinsman’s feet,524 claim: “We are meditators, we are meditators!” and with shoulders drooping, heads down and all limp, they meditate, premeditate, out-meditate, and mismeditate.525
Ví như con cú đậu trên cành cây, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: "Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền". Và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con giả can trên bờ sông, khi đang rình cá; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền;
Just as an owl on a branch waiting for a mouse meditates, premeditates, out-meditates, and mismeditates, or just as a jackal on a river-bank waiting for fish meditates, premeditates, out-meditates, and mismeditates, or just as a cat, waiting for a mouse by an alley or drain or rubbish bin, meditates, premeditates, out-meditates, and mismeditates, or just as a donkey unladen, standing by a door-post or a dust-bin or a drain, meditates, premeditates, out-meditates, and mismeditates,
cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: "Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền" và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền.
so too, these bald-pated recluses, these swarthy menial offspring of the Kinsman’s feet, claim: “We are meditators, we are meditators!” and with shoulders drooping, heads down and all limp, they meditate, premeditate, out-meditate, and mismeditate.’
Ví như con mèo ngồi bên đống rác, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền;
cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: "Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền" và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền.
Ví như con lừa, gánh nặng được đặt xuống, đang tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền;
cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: "Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền", và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền".
Này Ác ma lúc bấy giờ, phần lớn những người ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Now, Evil One, on that occasion most of those human beings, when they died, reappeared on the dissolution of the body, after death, in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell. [335]
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
14. “Then the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, addressed the bhikkhus thus:
"-- Này các Tỷ-kheo, những Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dūsī nhập vào và nói: "Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ".
‘Bhikkhus, the Māra Dūsī has taken possession of the brahmin householders, telling them: “Come now, abuse, revile, scold, and harass the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are abused, reviled, scolded, and harassed by you, some change will come about in their mind whereby the Māra Dūsī may find an opportunity.”
Này các Tỷ-kheo, hãy đến biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.
Come, bhikkhus, abide pervading one quarter with a mind imbued with loving-kindness, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth;
Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
so above, below, around, and everywhere, and to all as to yourselves, abide pervading the all-encompassing world with a mind imbued with loving-kindness, abundant, exalted, immeasurable, without hostility and without ill will.
Với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ..., biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, rồi an trú;
Abide pervading one quarter with a mind imbued with compassion… with a mind imbued with altruistic joy… with a mind imbued with equanimity… abundant, exalted, immeasurable, without hostility and without ill will.’526
cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân".
Rồi Ác ma, các Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ không vắng, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ rồi an trú;
15. “So, Evil One, when those bhikkhus had been thus advised and instructed by the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, then, gone to the forest or to the root of a tree or to an empty hut, they abided pervading one quarter with a mind imbued with loving-kindness…
cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả rồi an trú;
with a mind imbued with compassion… with a mind imbued with appreciative joy… with a mind imbued with equanimity…
cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
without hostility and without ill will.
Này Ác ma, rồi Māra Dūsī suy nghĩ như sau: "Làm như vậy, ta không thể biết chỗ đến hay chỗ đi của các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Vậy ta hãy nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói như sau: "Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh này. Do được tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ".
16. “Then, Evil One, the Māra Dūsī considered thus: ‘Though I do as I am doing, still I do not know the coming or the going of these virtuous bhikkhus of good character. Let me now take possession of the brahmin householders, telling them: “Come now, honour, respect, revere, and venerate the virtuous bhikkhus of good character; [336] then perhaps, when they are honoured, respected, revered, and venerated by you, some change will come about in their minds whereby the Māra Dūsī may find an opportunity.”’527
Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói: "Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các Ngươi tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ".
17. “Then, Evil One, the Māra Dūsī took possession of those brahmin householders, telling them: ‘Come now, honour, respect, revere, and venerate the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are honoured, respected, revered, and venerated by you, some change will come about in their minds whereby the Māra Dūsī may find an opportunity.’
Rồi này Ác ma, những Bà-la-môn gia chủ, bị Ác ma Dūsī xâm nhập, tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Này Ác ma, sau một thời gian những vị này mạng chung và phần lớn sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới và đời này.
Then, when the Māra Dūsī had taken possession of the brahmin householders, they honoured, respected, revered, and venerated the virtuous bhikkhus of good character. Now, Evil One, on that occasion most of those human beings, when they died, reappeared on the dissolution of the body, after death, in a happy destination, even the heavenly world.
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusamdha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
18. “Then, Evil One, the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, addressed the bhikkhus thus:
"-- Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dūsī xâm nhập và nói như sau: "Các Ngươi hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các Ngươi tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy sống quán bất tịnh trên thân, quán tưởng nhàm chán đối với các món ăn, quán tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành".
‘Bhikkhus, the Māra Dūsī has taken possession of those brahmin householders, telling them: “Come now, honour, respect, revere, and venerate the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are honoured, respected, revered, and venerated by you, some change will come about in their minds whereby the Māra Dūsī may find an opportunity.” Come, bhikkhus, abide contemplating foulness in the body, perceiving repulsiveness in nutriment, perceiving disenchantment with all the world, contemplating impermanence in all formations.’528
Và này Ác ma, những Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ trống vắng, sống quán (tánh) bất tịnh trên thân, (quán) tưởng nhàm chán đối với các món ăn, (quán) tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành.
19. “So, Evil One, when those bhikkhus had been thus advised and instructed by the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, then, gone to the forest or to the root of a tree or to an empty hut, they abided contemplating foulness in the body, perceiving repulsiveness in nutriment, perceiving disenchantment with all the world, contemplating impermanence in all formations.
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, buổi sáng đắp y, mang y bát, với Tôn giả Vidhura là thị giả, đi vào làng để khất thực.
20. “Then, when it was morning, the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, dressed, and taking his bowl and outer robe, he went into the village for alms with the venerable Vidhura as his attendant.
Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào một đứa trẻ, cầm một hòn đá, đánh trên đầu Tôn giả Vidhura khiến bể đầu. Rồi này Ác ma, Tôn giả Vidhura với đầu bị bể và với máu chảy, vẫn đi sau lưng Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
21. “Then the Māra Dūsī took possession of a certain boy, and picking up a stone, he struck the venerable Vidhura on the head with it and cut his head. With blood running from his cut head, [337] the venerable Vidhura followed close behind the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened.
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nhìn xung quanh với cái nhìn con voi chúa và suy nghĩ như sau: "Thật vậy, Ác ma Dūsī không biết sự vừa phải". Này Ác ma, khi Thế Tôn nhìn xung quanh, thì Ác ma Dūsī liền từ chỗ ấy từ trần và sinh vào cõi địa ngục.
Then the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, turned around and looked at him with the elephant look: ‘This Māra Dūsī knows no bounds.’ And with that look, Evil One, the Māra Dūsī fell from that place and reappeared in the Great Hell.529
Này Ác ma, địa ngục ấy được ba tên gọi: Sáu xúc xứ địa ngục, Thiết qua địa ngục, Biệt thọ khổ địa ngục. Rồi các người giữ địa ngục đến ta và nói như sau: "Này Tôn giả, khi cọc sắt sẽ gặp cọc sắt trong tim của Ngươi, Ngươi mới hiểu như sau: "Ta sẽ bị trụng nước sôi một ngàn năm ở địa ngục.''
22. “Now, Evil One, there are three names for the Great Hell: the hell of the six bases for contact, the hell of the impalement with stakes, and the hell to be felt for oneself.530 Then, Evil One, the wardens of hell came up to me and said: ‘Good sir, when stake meets stake in your heart, then you will know: “I have been roasting in hell for a thousand years.”’
Và ta, này Ác ma, ta bị trụng nước sôi, trải nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm trong địa ngục. Trải qua một vạn năm trong đại địa ngục ấy, ta bị nấu sôi và cảm thọ cảm giác gọi là Vutthanima. Do vậy, này Ác ma, thân của ta là như vậy, thân như con người, và đầu ta là như vậy, đầu như con cá.
23. “For many a year, Evil One, for many a century, for many a millennium, I roasted in that Great Hell. For ten millennia I roasted in the auxiliary of that Great Hell, experiencing the feeling called that of emergence from ripening.531 My body had the same form as a human body, Evil One, but my head had the form of a fish’s head.
1. Ðịa ngục ấy thế nào
Dūsī bị nấu sôi
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kakusandha.
24. “What can hell be well compared to
Wherein Dūsī roasted, assailant
Of Vidhura the disciple
And the brahmin Kakusandha?532
Có trăm loại cọc sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt
Ðịa ngục là như vậy,
Stakes of steel, even a hundred,
Each one suffered separately;
These can hell be well compared to
Dūsī bị nấu sôi.
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kakusandha
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,
Wherein Dūsī roasted, assailant
Of Vidhura the disciple
And the brahmin Kakusandha.
Dark One, you have much to suffer
By assaulting such a bhikkhu,
An Enlightened One’s disciple
Who directly knows this fact.
2. Dựng lên giữa biển cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu.
25. “In the middle of the ocean
There are mansions aeon-lasting,
Sapphire-shining, fiery-gleaming
With a clear translucent lustre,
Tiên nữ múa tại đây,
Trang sức màu dị biệt.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ Thọ,
Where iridescent sea-nymphs dance
In complex, intricate rhythms.
Dark One, you have much to suffer…
Who directly knows this fact.
3. Ai Thế Tôn khuyến khích,
Ðược chư Tăng chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển,
Lâu đài Vijayanta!
26. “I am one who, when exhorted
By the Enlightened One in person,
Shook Migāra’s Mother’s Palace
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,
With his toe, the Order watching.533
Dark One, you have much to suffer…
Who directly knows this fact.
4. Với ngón chân rung chuyển
Lâu đài Vijayanta?
Ðầy đủ thần thông lực,
Chư thiên cũng hoảng sợ.
27. “I am one who, wielding firmly
Strength of supernormal powers,
Shook all Vejayanta Palace
With his toe to incite the gods:534 [338]
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,!
Dark One, you have much to suffer…
Who directly knows this fact.
5. Ai hỏi vị Sakka,
Tại lầu Vijayanta,
Hiền giả, Người có biết,
Chứng ái tận giải thoát?
28. “I am one who, in that palace,
Posed to Sakka this question:
‘Do you know then, friend, deliverance
In craving’s utter destruction?’
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.
Whereupon Sakka then answered
Truly to the question asked him:535
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,
Dark One, you have much to suffer…
Who directly knows this fact.
6. Ai từng hỏi Phạm thiên,
Tại hội chúng Thiện pháp,
29. “I am one who thought of posing
Brahmā this question
In Sudhamma Hall in heaven:
Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng,
Phạm thiên cảnh Thiên giới?
‘Is there still found in you, friend,
The wrong view you once accepted?
Do you see the radiance
Surpassing that in the Brahmā-world?’
Brahmà đã chân thành,
Tiếp tục đáp câu hỏi:
Brahmā then answered my question
Truthfully and in due sequence:
Tôn giả, tôi không chấp,
Các tà kiến thuở xưa!
Tôi thấy sự huy hoàng,
Phạm thiên cảnh Thiên giới!
‘There is found in me no longer,
Sir, the wrong view that once I held;
Indeed I see the radiance
Surpassing that in the Brahmā-world.
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng thường tại?
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
Today how could I maintain
That I am permanent and eternal?’:536
Dark One, you have much to suffer…
Who directly knows this fact.
7. Ai với sự giải thoát,
Cảm xúc Cao sơn đảnh,
Rừng Ðông Videha,
Và người nằm trên đất,
30. “I am one who, by liberation,
Has touched the peak of Mount Sineru,
Visited the Pubbavidehans’ grove
And whatever humans dwell on earth.537
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Dark One, you have much to suffer
By assaulting such a bhikkhu,
An Enlightened One’s disciple
Who directly knows this fact.
8. Thật sự lửa không nghĩ:
Ta đốt cháy kẻ ngu,
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.
31. “There has never been found a fire
Which intends, ‘Let me burn the fool,’
But a fool who assaults a fire
Burns himself by his own doing.
Cũng vậy, này Ác ma,
Ngươi đột kích Như Lai.
Tự mình đốt cháy mình
Như kẻ ngu chạm lửa,
So it is with you, O Māra:
By assaulting the Tathāgata,
Like a fool who plays with fire
You only burn yourself alone.
Ác ma tạo ác nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng, Ác ma,
Ác quả không đến ta.
By assaulting the Tathāgata,
You generate much demerit.
Evil One, do you imagine
That your evil will not ripen?
Ðiều ác Ác ma làm,
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác ma, hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo!
Doing thus, you store up evil
Which will last long, O End-maker!
Māra, shun the Enlightened One,
Play no more your tricks on bhikkhus.”
Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại rừng Bhesakala,
Vị Dạ xoa, thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.
So the bhikkhu chastened Māra
In the Bhesakaḷā thicket
Whereupon the sombre spirit
Disappeared right then and there.