Tôi nghe như vầy:
Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. There he addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus.” — “Venerable sir,” they replied. The Blessed One said this:
"Chư Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Người pháp môn về khu rừng. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng". --"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
2. “Bhikkhus, I shall teach you a discourse on jungle thickets. Listen and attend closely to what I shall say.” — “Yes, venerable sir,” the bhikkhus replied. The Blessed One said this:
-- Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y dược trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn.
3. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in some jungle thicket.223 While he is living there his unestablished mindfulness does not become established, his unconcentrated mind does not become concentrated, his undestroyed taints do not come to destruction, he does not attain the unattained supreme security from bondage; and also the requisites of life that should be obtained by one gone forth — robes, almsfood, resting place, and medicinal requisites — are hard to come by.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ: "Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn".
The bhikkhu [105] should consider thus: ‘I am living in this jungle thicket. While I am living here my unestablished mindfulness does not become established… I do not attain the unattained supreme security from bondage; and also the requisites of life… are hard to come by.’
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải từ bỏ ngôi rừng ấy, không được ở lại, ngay lúc ban ngày hay lúc ban đêm.
That bhikkhu should depart from that jungle thicket that very night or that very day; he should not continue living there.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn.
4. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in some jungle thicket. While he is living there his unestablished mindfulness does not become established, his unconcentrated mind does not become concentrated, his undestroyed taints do not come to destruction, he does not attain the unattained supreme security from bondage; yet the requisites of life that should be obtained by one gone forth… are easy to come by.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: "Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú... những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn.
The bhikkhu should consider thus: ‘I am living in this jungle thicket. While I am living here my unestablished mindfulness does not become established… I do not attain the unattained supreme security from bondage; yet the requisites of life that should be obtained by one gone forth… are easy to come by.
Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, không phải vì đồ ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
However, I did not go forth from the home life into homelessness for the sake of robes, almsfood, resting place, and medicinal requisites.
Nhưng trong khi ta ở tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt".
Moreover, while I am living here my unestablished mindfulness does not become established… I do not attain the unattained supreme security from bondage.’
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này, phải từ bỏ ngôi rừng ấy, không được ở lại.
Having reflected thus, that bhikkhu should depart from that jungle thicket; he should not continue living there.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh được định tĩnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, nhưng những vật dụng cần thiết cho đời sống một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật này kiếm được một cách khó khăn.
5. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in some jungle thicket. While he is living there his unestablished mindfulness becomes established, his unconcentrated mind becomes concentrated, his undestroyed taints come to destruction, he attains the unattained supreme security from bondage; yet the requisites of life that should be obtained by one gone forth… are hard to come by.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: "Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt... những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn.
The bhikkhu should consider thus: [106] ‘I am living in this jungle thicket. While I am living here my unestablished mindfulness has become established… I have attained the unattained supreme security from bondage; yet the requisites of life… are hard to come by.
Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, không phải vì món ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
However, I did not go forth from the home life into homelessness for the sake of robes, almsfood, resting place, and medicinal requisites.
Nhưng trong khi ta ở tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt".
Moreover, while I am living here my unestablished mindfulness has become established… I have attained the unattained supreme security from bondage.’
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này, phải ở lại khu rừng ấy, không được bỏ đi.
Having reflected thus, that bhikkhu should continue living in that jungle thicket; he should not depart.
Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt. Và những vật dụng cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn.
6. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in some jungle thicket. While he is living there his unestablished mindfulness becomes established, his unconcentrated mind becomes concentrated, his undestroyed taints come to destruction, he attains the unattained supreme security from bondage; and also the requisites of life that should be obtained by one gone forth — robes, almsfood, resting place, and medicinal requisites — are easy to come by.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: "Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn".
The bhikkhu should consider thus: ‘I am living in this jungle thicket. While I am living here my unestablished mindfulness has become established… I have attained the unattained supreme security from bondage; and also the requisites of life… are easy to come by.’
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải ở lại khu rừng cho đến trọn đời, không được rời bỏ.
That bhikkhu should continue living in that jungle thicket as long as life lasts; he should not depart.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một làng nào...
7–10. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in dependence upon a certain village… 224
Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống tại một thị trấn nào...
11–14. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in dependence upon a certain town…
Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống tại một đô thị nào...
15–18. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in dependence upon a certain city…
Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống tại một quốc gia nào...
19–22. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in dependence upon a certain country…
Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn.
23. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in dependence upon a certain person… (as in §3) [107]…
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn".
Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy ngay trong phần đêm ấy hay ngay trong phần ngày ấy, không phải xin phép, cần phải bỏ ngay người ấy mà đi, không cần theo sát người ấy.
That very night or that very day, that bhikkhu should depart from that person without taking leave; he should not continue following him.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt. Nhưng những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn.
24. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in dependence upon a certain person… (as in §4)…
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt. Nhưng những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn.
Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... không phải vì đồ ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Và khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt".
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, chỉ với ước tính này, cần phải bỏ người ấy mà đi, không có xin phép, không có theo sát.
Having reflected thus, that bhikkhu should depart from that person after taking leave;225 he should not continue following him.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú được an trú... được chứng đạt. Những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn.
25. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in dependence upon a certain person… (as in §5)…
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú... được chứng đạt. Những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn.
Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... không phải vì đồ ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Và khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt".
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, chỉ với suy tính này, cần phải theo sát người ấy, không được bỏ đi.
Having reflected thus, that bhikkhu should continue following that person; he should not depart from him.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm không định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn.
26. “Here, bhikkhus, a bhikkhu lives in dependence upon a certain person… (as in §6) [108]…
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, và vô thượng an ổn, khỏi ách phược chưa được thành đạt được thành đạt.
Và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách dễ dàng".
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi, dầu cho có bị xua đuổi.
That bhikkhu should continue following that person as long as life lasts; he should not depart from him even if told to go away.”
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Những Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
That is what the Blessed One said. The bhikkhus were satisfied and delighted in the Blessed One’s words.