Như vậy tôi nghe.
1. Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu).
[194] 1. THUS HAVE I HEARD.986
Once the Lord was staying at Rājagaha on Vultures’ Peak.
Bốn Thiên vương sau khi sắp đặt trấn giữ bốn phương với đại quân Yakkha (Dạ-xoa), đại quân Gandhabba (Càn-thát-bà), đại quân Kumbhaṇḍa (Cưu-bàn-trà) và đại quân Nāga (Na-già), án ngữ bốn phương, bảo trì bốn phương, trong đêm tối thâm sâu, với hào quang tuyệt diệu chói sáng toàn thể núi Linh Thứu, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
And the Four Great Kings,987with a great array of yakkhas, of gandhabbas, of Kumbhaṇḍas and of nagas,988 having set up a guard, a defensive force, a watch over the four quarters,989 as night was drawing to a close, went to see the Lord, lighting up the entire Vultures’ Peak with their radiance, saluted him and sat down to one side.
Các vị Dạ-xoa, có vị đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm, rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên tên họ rồi ngồi xuống một bên; có vị im lặng, rồi ngồi xuống một bên.
And some of the yakkhas saluted him and sat down to one side, some exchanged courtesies with him before sitting down, same saluted him with joined palms, some announced their name and clan, and some sat down in silence.990
2. Sau khi ngồi xuống một bên, đại vương Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn) bạch Thế Tôn:
2. Then sitting to one side, King Vessavana991 said to the Lord:
- Bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn có những thượng phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn, Bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nhưng phần lớn các Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn.
‘Lord, there are some prominent yakkhas who have no faith in the Blessed Lord, and others who have faith; and likewise [195] there are yakkhas of middle and lower rank who have no faith in the Blessed Lord, and others who have faith. But, Lord, the majority of yakkhas have no faith in the Blessed Lord.
Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn. Thế Tôn thuyết pháp để từ bỏ sát sanh, thuyết pháp để từ bỏ trộm cắp, thuyết pháp để từ bỏ tà dâm, thuyết pháp để từ bỏ nói láo, thuyết pháp để từ bỏ không uống các loại rượu.
Why is this? The Blessed Lord teaches a code of refraining from taking life, from taking what is not given, from sexual misconduct, from lying speech, and from strong drink and sloth-producing drugs.
Bạch Thế Tôn, tuy vậy phần lớn các Dạ-xoa đều không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ trộm cắp, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ uống các loại rượu. Ðối với họ, Pháp ấy không được ưa thích, không được đón mừng.
But the majority of the yakkhas do not refrain from these things, and to do so is distasteful and unpleasant to them.
Bạch Thế Tôn, có những đệ tử của Thế Tôn, sống trong chốn thâm sâu cùng cốc, ít tiếng, ít động, có gió mát từ ngoài đồng thổi, che dấu không cho người thấy, thích hợp tịnh tu. Tại chỗ ấy, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng lời dạy Thế Tôn.
Now, Lord, there are disciples of the Blessed Lord who dwell in remote forest glades, where there is little noise or shouting, far from the madding crowd, hidden from people, suitable for retreat. And there are prominent yakkhas living there who have no faith in the word of the Blessed Lord.
Bạch Thế Tôn, hãy học chú Āṭānāṭiyarakkha (A-sá-nang-chi Hộ Kinh) để họ được lòng tin, để các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ có thể sống an lạc, được che chở, được hộ trì không bị tại họa.
Thế Tôn im lặng chấp thuận.
In order to give these folk confidence, may the Blessed Lord leam992 the Āṭānāṭā protective verses, by means of which monks and nuns, male and female lay-followers may dwell guarded, protected, unharmed and at their ease?’
And the Lord consented by silence.
3. Rồi đại vương Vessavaṇa, biết được Thế Tôn đã chấp thuận, trong giờ phút ấy, đọc lên bài Āṭānāṭiya Hộ Kinh:
3. Then King Vessavana, noting the Lord’s consent, at once recited these Āṭānāṭā protective verses:
Ðảnh lễ Vipassī (Tỳ-bà-thi),
Sáng suốt và huy hoàng!
Ðảnh lễ đấng Sikhī (Thi-khí)
Có lòng thương muôn loài!
‘Glory be to Vipassī,993
The splendid one of mighty vision.
Glory be to Sikhī too,
The compassionate to all.
Ðảnh lễ Vessabhū (Tỳ-xá-bà),
Thanh tịnh, tu khổ hạnh!
Ðảnh lễ Kakusandha (Câu-lâu-tôn),
Vị nhiếp phục ma quân!
Glory be to Vessabhū,
Bathed in pure asceticism.994 [196]
To Kakusandha glory be,
Victor over Māra’s host.
Ðảnh lễ Koṇāgamana (Câu-na-hàm),
Bà-la-môn viên mãn!
Ðảnh lễ Kassapa (Ca-diếp),
Vị giải thoát muôn mặt!
To Konāgamana glory too,
Brahmin fully perfect he.
Glory be to Kassapa,
Liberated every way,
Ðảnh lễ Aṅgīrasa,
Vị Thích tử huy hoàng,
Ðã thuyết chơn diệu pháp,
Diệt trừ mọi khổ đau!
Glory to Angirasa,
To the Sakyas’ radiant son,995
Teacher of the Dhamma he
That overcomes all suffering.
Ai yểm ly thế giới,
Nhìn đời đúng như chơn,
Vị ấy không hai lưỡi,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
And they who from this world are freed,996
Seeing to the heart of things,
They who are so mild of speech,
Mighty and of wisdom too,
Cùng đảnh lễ Gotama,
Lo an lạc Nhân Thiên
Trì giới đức viên mãn!
Bậc vĩ đại thanh thoát!
To him who helps both gods and men,
To Gotama they offer praise:
In wisdom trained, in conduct too,
Mighty and resourceful too.
4. Mặt trời sáng mọc lên,
Vầng thái dương tròn lớn,
Khi mặt trời mọc lên,
Ðêm tối liền biến mất.
4. ‘The point from where the sun comes up,
Aditya’s child, in mighty arc,
At whose arising shrouding night
Is dispelled and vanishes,
Khi mặt trời mọc lên
Liền được gọi là ngày.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu.
So that with the risen sun
There comes to be what folk call Day,
There too this moving watery mass,
The deep and mighty ocean swells,
Ở đấy mọi người biết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy
Là phương Purimā, (phương Đông).
This men know, and this they call
Ocean or The Swelling Sea. [197]
This quarter is the East, or First:997
That is how the people call it.
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương danh xưng,
Chư loài Càn-thát-bà,
Danh gọi Dhataraṭṭha (Trì Quốc Thiên vương).
This quarter’s guarded by a king,
Mighty in power and fame is he,
Lord of all the gandhabbas.
Dhatarattha is his name,
Càn-thát-bà hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Honoured by the gandhabbas.
Their songs and dances he enjoys.
He has many mighty sons,
Eighty, ten and one, they say,
Tám mươi và mười một,
Ðại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc dòng họ mặt trời.
And all with but a single name,
Called after Indra, lord of strength.
And when the Buddha greets their gaze,
Buddha, kinsman of the Sun,
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
"Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
From afar they offer homage
To the Lord of wisdom true:
“Hail, o man of noble race!
Hail to you, the first of men!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài".
Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
In kindness you have looked on us,
Who, though not human, honour you!
Often asked, do we revere
Gotama the Conqueror? —
"Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Ðảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn".
We reply: ‘We do revere
Gotama, great Conqueror,
In wisdom trained, in conduct too,
Buddha Gotama we hail!’”
5. Họ được gọi Peta,
Nói hai lưỡi, sau lưng,
Sát sanh và tham đắm,
Ðạo tặc và man trá,
5. ‘Where they whom men call petas998 dwell,
Abusive speakers, slanderers,
Murderous and greedy folk,
Thieves and cunning tricksters all, [198]
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Dakkhiṇā (phương Nam).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương, danh xưng,
This quarter is the South, they say:
That is how the people call it.
This quarter’s guarded by a king,
Mighty in power and fame is he,
Chủ loài Kumbhaṇḍa (Cưu-bàn-trà)
Danh gọi Virūḷhaka (Tỳ-lâu-lặc).
Kumbhaṇḍa hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Lord of all the Kumbhaṇḍas,
And Virūḷhaka is his name.
Honoured by the kumbhaṇḍas,
Their songs and dances he enjoys...
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Ðại lực, danh Inda.
(continue as 4).
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc dòng họ mặt trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
"Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài".
Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
"Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Ðảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn".
6. Mặt trời sáng lặn xuống,
Vầng thái dương trong lớn.
Khi mặt trời lặn xuống.
Ban ngày liền biến mất.
6. ‘The point at which the sun goes down,
Aditya’s child, in mighty arc,
With whose setting day is done
And night, The Shrouder, as men say,
Khi mặt trời lặn xuống,
Liền được gọi là đêm.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu,
Comes again in daylight’s place,
There too this moving watery mass,
The deep and mighty ocean swells,
This they know, and this men call
Ở đây mọi người hết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Pacchimā (phương Tây).
Ocean, or The Swelling Sea.
This quarter is the West, or Last:999
Such is how the people call it. [199]
This quarter’s guarded by a king,
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương, danh xưng.
Chủ các loài Nāga,
Danh Virūpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa).
Mighty in power and fame is he,
Lord of all the naga folk,
And Virūpakkha’s his name.
Honoured by the nāga folk,
Loài Nāga hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Their songs and dances he enjoys...
Tám mươi và mười một,
Ðại lực, danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc dòng họ mặt trời.
(continue as 4).
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
"Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài".
Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
"Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Ðảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn".
7. Bắc Lô Châu (Uttarakuru) an lạc
Ðại Neru (Tu-di) đẹp đẽ.
Tại đấy, mọi người sống
Không sở hữu, chấp trước.
7. ‘Where lovely Northern Kuru lies,
Under mighty Neru fair,
There men dwell, a happy race,1000
Possessionless, not owning wives.1001
Họ không gieo hột giống,
Không cần phải kéo cày.
Loài người được thọ hưởng
Lúa chín khỏi nhọc công.
They have no need to scatter seed,
They have no need to draw the plough:
Of itself the ripened crop
Presents itself for men to eat.
Loại gạo không cám trấu,
Thanh tịnh có hương thơm,
Ðược nấu chín trên đá,
Và họ ăn gạo ấy.
Free from powder and from husk,
Sweet of scent, the finest rice, [200]
Boiling on hot oven-stones,1002
Such the food that they enjoy.
Chỉ cỡi loài bò cái,
Ði phương này phương khác.
Chỉ dùng các loài thú
Ði phương này phương khác.
The ox their single-seated mount,1003
Thus they ride about the land.
Using women as a mount,
Thus they ride about the land;1004
Dùng xe đàn bà kéo,
Ði phương này phương khác.
Dùng xe đàn ông kéo,
Ði phương này phương khác.
Using men to serve as mount,
Thus they ride about the land;
Using maidens as a mount,
Thus they ride about the land;
Dùng xe con gái kéo,
Ði phương này phương khác.
Dùng xe con trai kéo,
Ði phương này phương khác.
Using boys to serve as mount,
Thus they ride about the land.
And so, carried by such mounts,
All the region they traverse
Họ lên trên các xe,
Ði khắp mọi phương hướng,
Ðể phục vụ vua mình.
Họ cỡi xe voi kéo,
Xe ngựa, xe chư Thiên,
In the service of their king.
Elephants they ride, and horses too,
Cars fit for gods they have as well.
Splendid palanquins are there
For the royal retinue.
Ðối với vua danh xưng,
Có lâu đài, có kiệu,
Nhiều thành phố của vua,
Ðược xây giữa hư không.
Cities too they have, well-built,
Soaring up into the skies:
Các thành Aṭānāṭā, Kusināṭā,
Parakusināṭā, Nāṭapuriyā, Parakusiṭannāṭā
Kapāvānta thuộc phía Bắc,
Và các thành phố khác,
Như Janogha, Navanavatiya,
Ambara, Ambaravatiya,
Āḷakamandā,
Là kinh đô của vua,
Chỗ Kuvera ở.
Āṭānāṭā, Kusināṭā,
Parakusināṭā,
Nāṭapuriya is theirs,
And Parakusitanāṭā. [201]
Kapīvanta′s to the north,
Janogha, other cities too,
Navanavatiya, Ambara-
Ambaravatiya,1005
Āḷakamandā, city royal,
Vị vua đáng kính này,
Kinh đô tên Visāṇā.
Do vậy Kuvera,
Ðược danh Vessavaṇa.
But where Kuvera dwells, their lord
Is called Visāṇā, whence the king
Bears the name Vessavana.1006
Các sứ quán được tên:
Tatolā, Tattalā, Tatotalā,
Ojasi, Tejasi, Tatojasi,
Vua Sūra, Ariṭṭha, Nemi.
Those who bear his missions are
Tatolā, Tattalā,
Tototalā, then
Tejasi, Tatojasi,
Sura, Rājā, Arittha, Nemi.
Ðây có vùng nước lớn,
Từ đây mưa đổ xuống,
Ðược tên Dharaṇī.
There’s the mighty water Dharani,
Source of rain-clouds which pour down
When the rainy season comes.
Tại đây mưa đổ xuống,
Tại đây có giảng đường,
Tên Bhagalavati,
Chỗ Dạ-xoa tập hội.
Bhagalavati’s there, the hall
That is the yakkhas’ meeting-place,
Tại đây nhiều cây trái,
Trên cây chim tụ họp,
Các loại công, loại cò,
Diệu âm chim Kokilā,
Round it ever-fruiting trees
Full of many kinds of birds,
Where peacocks scream and herons cry,
And the cuckoo gently calls.
Ở đây, chim Jīva,
Kêu tiếng "Hãy sống đi",
Và tiếng chim kêu lên,
"Hãy khởi tâm thích thú".
The jīva-bird who cries: “Live on!”1007
And he that sings: “Lift up your hearts!”1008 [202]
Nhiều loại chim sai khác,
Ở rừng và ở hồ,
Với con vẹt ồn ào,
Và con chim Mynah,
The pheasant-cock, kulīraka, 1009
The forest-crane, the rice-bird too,
And mynah-birds that mimic man,
And those whose name is “men on stilts”.
Các loại chim thần thoại,
Gọi là Daṇḍamāṇavaka.
And there for ever beauteous lies
Hồ sen Kuvera,
Chiếu sáng tất cả trời,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Uttarā (phương Bắc).
Fair Kuvera’s lotus-lake.
This quarter is the North, they say:
That is how the people call it.
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương danh xưng,
Chủ các loài Dạ-xoa,
Ðược gọi Kuvera.
This quarter’s guarded by a king,
Mighty in power and fame is he,
Lord of all the yakkha folk,
And Kuvera is his name.
Các Dạ-xoa hầu quanh,
Hưởng múa hát của chúng.
Honoured by the yakkha folk,
Their songs and dances he enjoys.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Ðại lực, danh Inda.
He has many mighty sons,
Eighty, ten and one, they say,
And all with but a single name,
Called after Indra, lord of strength.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc dòng họ mặt trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
And when the Buddha greets their gaze,
Buddha, kinsman of the Sun,
From afar they offer homage
To the Lord of wisdom true:
"Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài".
“Hail, o man of noble race!
Hail to you, the first of men!
In kindness you have looked on us,
Who, though not human, honour you!
Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
"Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Often asked, do we revere
Gotama the Conqueror? —
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Ðảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn".
We reply: ‘We do revere
Gotama, great Conqueror,
In wisdom trained, in conduct too,
Buddha Gotama we hail!’” [203]
8. Tôn giả, Āṭānāṭiya Hộ Kinh này che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.
8. ‘These, sir, are the Āṭānāṭā protective verses, by means of which monks and nuns, male and female lay-followers may dwell guarded, protected, unharmed and at ease.
Khi một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ nào sẽ học Hộ Kinh Atanatiya này một cách chín chắn, rõ ràng, nếu có loài phi nhân nào, Dạ-xoa, Dạ-xoa-ni, con trai Dạ-xoa, con gái Dạ-xoa, đại thần Dạ-xoa-ni, tùy tùng của Dạ-xoa, hay lao công của Dạ-xoa; hoặc Càn-thát-bà... hoặc Cưu-bàn-trà (Kumbhaṇḍa)... hoặc Nāga... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ khi vị này đi; đứng gần, khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, thời này Tôn giả, vị phi nhân ấy trong làng hay trong đô thị sẽ không được ai đón mừng hay kính trọng.
If any monk or nun, male or female lay-follower learns these verses well and has them off by heart, then if any non-human being, male or female yakkha or yakkha-offspring, or a chief attendant or servant of the yakkhas, any male or female gandhabba, ... Kumbhaṇḍa, ... nāga,... should approach that person with hostile intent while he or she is walking or starting to walk, standing or rising to stand, seated or sitting down, lying down or starting to lie down, that non-human being would not gain any honour or respect in village or town.
Này Tôn giả, phi nhân ấy, trong kinh đô Alakamada của Ta sẽ không tìm được đất đai hay chỗ ở. Vị phi nhân ấy sẽ không được đi dự hội giữa các Dạ-xoa. Này Tôn giả, vị phi nhân ấy sẽ không được cưới hỏi. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dùng những lời nói hỗn láo xấc xược đối với vị ấy. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dìm đầu vị ấy xuống. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ chẻ đầu vị ấy ra làm bảy mảnh.
Such a being would not gain a footing or a lodging in my royal city of Alakamanda, he would not be admitted to the yakkhas’ assembly, nor would he be acceptable for taking or giving in marriage. And all the non-human beings, full of rage, would overwhelm him with abuse. Then they would bend down his head like an empty bowl, and they would split his skull into seven pieces.1010
9. Này Tôn giả, có hàng phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Chúng không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương.
9. ‘There are, sir, some non-human beings who are fierce, wild and terrible. They heed neither the Great Kings, nor their officers, nor their attendants.
Này Tôn giả, các phi nhân này được xem là thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, như các đại tướng cướp vua xứ Magadha bị chinh phục. Cũng vậy, các vị này không nghe lời các vị đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương.
They are said to be [204] in revolt against the Great Kings. Just as the bandit-chiefs whom the King of Magadha has overcome do not heed him, or his officers, or their attendants, so too do they behave.
Này Tôn giả, các vị đại tướng cướp này được xem là kẻ thù nghịch của vua xứ Magadha - cũng vậy, này Tôn giả, có những vị phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Các vị này không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần các vị đại vương.
Này Tôn giả, các vị phi nhân này được xem là kẻ thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, nếu có vị phi nhân nào, Dạ-xoa hay Dạ-xoa-ni nào... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ hay Nữ cư sĩ khi vị này đi, đứng gần khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, vị này hãy nói lên, kêu lên, van lên với các những vị Dạ-xoa ấy, đại Dạ-xoa ấy, quân sư, đại quân sư ấy: "Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra".
Now if any yakkha or yakkha-offspring, ... gandhabba, ... should approach any monk, nun, male or female lay-follower... with hostile intent, that person should alarm, call out and shout to those yakkhas, the great yakkhas, their commanders and commanders-in-chief, saying: “This yakkha has seized me, has hurt me, harmed me, injured me, and will not let me go!”
10. Những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sư, đại quân sư nào được kêu gọi ở đây:
10. ‘Which are the yakkhas, the great yakkhas, their commanders and commanders-in-chief? They are:
Inda, Soma, và Varuṇa,
Bhāradvāja, Pajāpati,
Candana, Kāmaseṭṭha,
Kinnughaṇḍu, Nighaṇḍu,
Panāda và Opamañña,
Devasūta và Mātali,
Cittasena và Gandhabba.
Vua Naḷa, Janesabha,
Sātāgira Hemavata,
Puṇṇaka, Karatiya, Guḷa,
Sīvaka và Mucalinda
Vessāmitta, Yugandhara,
Gopāla và Suppagedha,
Hirī, Settī và Mandiya,
Pañcālacaṇḍa Canda, Āḷavaka,
Pajjunna, Sumana, Sumukha,
Dadhimukha Maṇi, Mānicara, Dīgha,
Và sau là Serīsaka.
Indra, Soma, Varuna,
Bharadvaja, Pajapati,
Candana, Kamasettha,
Kinnughaṇḍu and Nighandu,
Panāda, Opamañña,
Devasuta, Matali,
Cittasena the gandhabba,
Nala, Raja, Janesabha,
Sātāgira, Hemavata,
Punnaka, Karatiya, Gula, [205]
Sivaka, Mucalinda too,
Vessāmitta, Yugandhara,
Gopāla, Suppagedha too,
Hiri, Netti and Mandiya,
Pañcālacaṇḍa, Alavaka,
Pajunna, Sumana, Sumukha,
Dadimukha, Mani too,
Then Mānicara, Digha,
And, finally, Serissaka.1011
Những vị này là những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sư, đại quân sư cần phải được nói lên, kêu lên, van lên: "Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra".
These are the yakkhas, great yakkhas, their commanders and commanders-in-chief who should be called upon in case of such an attack.
11. Này Tôn giả, đây là Āṭānāṭiya Hộ Kinh che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.
11. ‘And these, sir, are the Āṭānāṭā protective verses by means of which monks and nuns, male and female lay-followers may dwell guarded, protected, unharmed and at ease.
Thưa Tôn giả, nay chúng tôi cần phải đi, chúng tôi có nhiều việc, có nhiều bổn phận.
And now, sir, we must go: we have many duties, many things to do.’
- Ðại vương, Ðại vương hãy làm điều gì Ðại vương nghĩ là phải thời.
‘Do so, Kings, when you think fit.’
Rồi bốn vị đại vương, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về phía Ngài rồi biến mất tại đấy.
And the Four Great Kings stood up, saluted the Lord, passed by on his right side, and vanished.
Các vị Dạ-xoa ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, có vị đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên những lời hỏi thăm xã giao với Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị chấp tay hướng đến Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên tên họ của mình rồi biến mất tại chỗ; có vị im lặng biến mất tại chỗ.
And the yakkhas stood up, and some saluted the Lord, passed by on his right, and vanished, some exchanged courtesies with the Lord, [206] some saluted him with joined palms, some announced their name and clan, some remained silent, and they all vanished.
12. Rồi Thế Tôn sau khi đêm đã mãn, liền gọi các vị Tỷ-kheo:
12. And when the night was over, the Lord said to the monks:
- Này các Tỷ-kheo, khi hôm, bốn vị đại vương cùng với đại quân sư Dạ-xoa:
‘Monks, this night the Four Great Kings... came to see the Lord... (repeat the whole of verses 1 — 11).
Ðảnh lễ Vipassī (Tỳ-bà-thi),
Sáng suốt và huy hoàng!
Ðảnh lễ đấng Sikhī (Thi-khí)
Có lòng thương muôn loài!...
Này Tôn giả, đó là Āṭānāṭiya Hộ Kinh che chở, hộ trì, ... (như trên) ... rồi biến mất tại chỗ".
13. Này các Tỷ-kheo, hãy học Āṭānāṭiya Hộ Kinh này, hãy thuộc lòng Kinh Āṭānāṭiya này, hãy thọ trì Āṭānāṭiya Hộ Kinh này. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ được che chở, được hộ trì, được ngăn khỏi ai làm hại, được sống thoải mái hạnh phúc.
13. ‘Monks, you should learn these Āṭānāṭā protective verses, master them and remember them. They are for your benefit, and through them monks and nuns, male and female lay-followers may dwell guarded, protected, unharmed and at ease.’
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ thọ trì lời dạy Thế Tôn.
Thus the Lord spoke. And the monks were delighted and rejoiced at his words.