The most common and widely known formulation of the Buddha's teaching is that which the Buddha himself announced in the First Sermon at Benares, the formula of the Four Noble Truths. The Buddha declares that these truths convey in a nutshell all the essential information that we need to set out on the path to liberation. He says that just as the elephant's footprint, by reason of its great size, contains the footprints of all other animals, so the Four Noble Truths, by reason of their comprehensiveness, contain within themselves all wholesome and beneficial teachings. However, while many expositors of Buddhism have devoted attention to explaining the actual content of the four truths, only rarely is any consideration given to the reason why they are designated noble truths. Yet it is just this descriptive word "noble" that reveals to us why the Buddha chose to cast his teaching into this specific format, and it is this same term that allows us to experience, even from afar, the unique flavor that pervades the entire doctrine and discipline of the Enlightened One.
|
Phương thức giảng dạy của Đức Phật được mọi người biết đến qua b�i Ph�p đầu ti�n m� Đức Phật đ� thuyết giảng trong b�i giảng tại vườn Lộc Uyển, Benares, đ� l� phương thức của bốn ph�p Th�nh Đế (Four Noble Truths). Đức Phật đ� tuy�n bố rằng những ch�n đế n�y t�m tắt tất cả thực chất kiến thức m� ch�ng ta cần l�nh hội trong cuộc h�nh tr�nh dẫn tới gi�c ngộ. Đức Phật Ng�i dậy rằng dấu ch�n voi, vi` lẽ rất to lớn, n�n chứa đựng được dấu ch�n của tất cả c�c lo�i th� kh�c, tương tự như vậy bốn ph�p Th�nh Đế, v� lẽ rất to�n diện, n�n trong đ� được chứa đựng tất cả những lời giảng trọn vẹn v� lợi lạc. Tuy nhi�n, trong khi rất nhiều người giảng dậy Phật Ph�p d�nh hết sự ch� t�m tới việc giải th�ch nội dung x�c thực của bốn điều ch�n đế (four truths), m� �t c� ai c�n nhắc đưa ra ly' do tại sao những điều n�y được xưng tụng l� Th�nh Đế (noble truths). Chỉ với sự giải th�ch của chữ "Th�nh" (noble) cũng đủ cho ch�ng ta h�nh dung được tại sao Đức Phật chọn lựa phương thức đặc sắc n�y để giảng dạy, v� cũng ch�nh danh từ n�y đ� cho ch�ng ta l�nh hội ngay được hương vị đặc th� tỏa ra từ gi�o ph�p v� từ con đường h�nh đạo của Ng�i. |
The word "noble," or ariya, is used by the Buddha to designate a particular type of person, the type of person which it is the aim of his teaching to create. In the discourses the Buddha classifies human beings into two broad categories. On one side there are the puthujjanas, the worldlings, those belonging to the multitude, whose eyes are still covered with the dust of defilements and delusion. On the other side there are the ariyans, the noble ones, the spiritual elite, who obtain this status not from birth, social station or ecclesiastical authority but from their inward nobility of character.
|
Danh từ �Th�nh� hay Ariya đ� được Đức Phật d�ng để đặc biệt xưng tụng cho một giới người, giới người đ� l� đối tượng m� Ng�i đ� tạo ra trong c�c b�i giảng của Ng�i. Trong b�i thuyết ph�p Đức Phật đ� chia lo�i người ra l�m hai loại. Ở một ph�a l� những người ph�m phu thất học, hay c�n gọi l� người trần tục, họ l� những người m� mắt bị che phủ bởi bụi bặm của � uế vẩn đục v� ảo tưởng. Ở ph�a kia l� những vị Th�nh (ariyans) những người cao qu�, những h�ng Th�nh Đệ Tử. Những vị n�y đạt được địa vị t�n qu� kh�ng phải do sinh ra, kh�ng phải do giai cấp trong x� hội, cũng kh�ng phải do gi�o quyền ban bố, m� ch�nh l� do từ nội t�m cao thượng của q�i Ng�i. |
These two general types are not separated from each other by an impassable chasm, each confined to a tightly sealed compartment. A series of gradations can be discerned rising up from the darkest level of the blind worldling trapped in the dungeon of egotism and self-assertion, through the stage of the virtuous worldling in whom the seeds of wisdom are beginning to sprout, and further through the intermediate stages of noble disciples to the perfected individual at the apex of the entire scale of human development. This is the arahant, the liberated one, who has absorbed the purifying vision of truth so deeply that all his defilements have been extinguished, and with them, all liability to suffering.
|
Hai loại người n�y kh�ng c�ch biệt nhau bởi một giới hạn kh�ng thể vượt qua được, mỗi loại người được giam h�m trong một ngăn tầng k�n đ�o. Một chu tr�nh tiến h�a c� thể được nhận thức r� bắt đầu bằng sự chổi dậy từ tối tăm u �m nhất của con người m� qu�ng do cạm bẫy của l�ng tự cao tự đại v� tự ki�u của m�nh, xuy�n qua tiến tr�nh của con người mộc mạc m� nơi đ� hạt nh�n của tr� tuệ bắt đầu nẩy mầm, v� tiến xa th�m nữa xuy�n qua giai tầng trung dung của con người hiểu đạo, rồi đến tiến tr�nh của một c� nh�n ho�n hảo vượt hẳn l�n mức thang cao nhứt m� con người c� thể ph�t triển. Đ�y l� vị A La H�n, một người được giải tho�t, một người đ� thấm nhuần t�nh chất thuần khiết của ch�n l� n�n những sự vẩn đục � uế, phiền n�o đ� được dập tắt, đ� ti�u tan, v� tan biến theo đ� l� sự khổ đau do phiền n�o. |
While the path from bondage to deliverance, from worldliness to spiritual nobility, is a graded path involving gradual practice and gradual progress, it is not a uniform continuum. Progress occurs in discrete steps, and at a certain point � the point separating the status of a worldling from that of a noble one � a break is reached which must be crossed, not by simply taking another step forward, but by making a leap, by jumping across from the near side to the further shore. This decisive event in the inner development of the practitioner, this radical leap that propels the disciple from the domain and lineage of the worldling to the domain and lineage of the noble ones, occurs precisely through the penetration of the Four Noble Truths. This discloses to us the critical reason why the four truths revealed by the Buddha are called noble truths. They are noble truths because when we have penetrated them through to the core, when we have grasped their real import and implications, we cast off the status of the worldling and acquire the status of a noble one, drawn out from the faceless crowd into the community of the Blessed One's disciples united by a unique and unshakable vision.
|
Trong khi con đường đưa từ b� buộc tới giải tho�t, từ ph�m phu tục tử tới vị th�nh, l� con đường kh� khăn gian khổ bao gồm từng bước một h�nh đạo v� từng bước một tinh tấn, n� cũng kh�ng phải l� một con đường li�n tục thuần nhất. Tinh tấn c� thể đạt được trong từng giai đoạn ri�ng biệt, v� tại một thời điểm đặc biệt - thời điểm ph�n c�ch giữa ti`nh trạng ph�m phu v� ti`nh trạng th�nh thiện - thử th�ch được vượt qua, kh�ng phải chỉ đơn giản bước tới một bước kh�c, nhưng phải bằng c�ch nhảy vọt, bằng c�ch nhảy từ ph�a b�n n�y qua tới bờ xa thẳm b�n kia. Quyết định n�y ph�t triển trong nội t�m của người h�nh tri`, bước tiến nhảy vọt n�y đưa người hiểu đạo từ cuộc đời trần tục tới khung trời của vị Th�nh, biểu hiện ch�nh x�c qua qu� tri`nh diễn đạt của bốn ph�p Th�nh Đế. Điều n�y phơi b�y cho ch�ng ta thấy r� ly' do tại sao bốn ch�n đế do Đức Phật chi�m nghiệm ra được gọi l� Th�nh Đế. Những điều n�y l� Th�nh Đế bởi vi` khi ch�ng ta thấu hiểu tường tận những điều n�y, khi ch�ng ta nắm được cả � nghĩa thực tế lẫn h�m � của ch�ng, l� l�c ch�ng ta rời bỏ được ti`nh trạng trần tục v� đạt đến ti`nh trạng của vị Th�nh, được đưa ra khỏi h�ng h� sa số những khu�n mặt v� h�nh để bước v�o cộng đồng của những vị Th�nh Đệ Tử của �ức Thế T�n được kết hợp bởi quan niệm đơn thuần v� tri kiến vững chắc. |
Prior to the penetration of the truths, however well endowed we may be with spiritual virtues, we are not yet on secure ground. We are not immune from regression, not yet assured of deliverance, not invincible in our striving on the path. The virtues of a worldling are tenuous virtues. They may wax or they may wane, they may flourish or decline, and in correspondence with their degree of strength we may rise or fall in our movement through the cycle of becoming. When our virtues are replete we may rise upward and dwell in bliss among the gods; when our virtues decline or our merit is exhausted we may sink again to miserable depths.
|
Trước khi thấm nhuần những ch�n đế, d� ch�ng ta c� được một tinh thần th�nh thiện, nhưng ch�ng ta vẫn chưa c� một nền tảng vững chắc. Ch�ng ta vẫn kh�ng chống chọi được sự tho�i ho�, chưa chắc chắn được lời ph�n quyết, kh�ng thể kh�ng bị đ�nh ng� trong cố gắng của ch�ng ta tr�n con đường đạo. T�m đạo của người trần thế thường l� t�m đạo mong manh. T�m đạo n�y c� thể được s�ng ch�i hoặc c� thể bị lu mờ, ch�ng c� thể nở rộ hay h�o t�n, v� tương ứng với cường độ mạnh yếu của t�m đạo m� ch�ng ta c� thể vươn l�n hay gục xuống trong h�nh tr�nh của ch�ng ta xuy�n qua chu kỳ tầm đạo. Khi t�m đạo của ch�ng ta đầy đủ ch�ng ta c� thể vươn l�n v� sống trong cỏi an l�nh của Chư Thi�n; khi t�m đạo của ch�ng ta suy giảm hoặc c�ng đức của ch�ng ta cạn kiệt ch�ng ta c� thể bị chi`m đắm trở lại trong địa ngục khổ đau. |
But with the penetration of the truths we leap across the gulf that separates us from the ranks of the noble ones. The eye of Dhamma has been opened, the vision of truth stands revealed, and though the decisive victory has not yet been won, the path to the final goal lies at our feet and the supreme security from bondage hovers on the horizon. One who has comprehended the truths has changed lineage, crossed over from the domain of the worldlings to the domain of the noble ones. Such a disciple is incapable of regression to the ranks of the worldling, incapable of losing the vision of truth that has flashed before his inner eye. Progress toward the final goal, the complete eradication of ignorance and craving, may be slow or rapid; it may occur easily or result from an uphill battle. But however long it may take, with whatever degree of facility one may advance, one thing is certain: such a disciple who has seen with immaculate clarity the Four Noble Truths can never slide backward, can never lose the status of a noble one, and is bound to reach the final fruit of arahantship in a maximum of seven lives.
|
Nhưng với sự thấm nhuần của những ch�n đế ch�ng ta đ� vượt qua vực thẳm ngăn c�ch ch�ng ta với h�ng ngũ của c�c vị Th�nh. Con mắt của Đạo Ph�p đ� mở, nhản quan về ch�n đế đ� cho thấy con đường đưa tới mục ti�u cuối c�ng nằm dưới ch�n ch�ng ta v� sự an l�nh vĩnh cửu đ� hiện ra nơi ch�n trời, mặc d� chiến thắng cuối c�ng chưa thật sự đạt được. Một vị th�nh như thế kh�ng thể n�o lui về h�ng ngũ của thế tuc, kh�ng thể n�o mất đi c�i nhi`n về sự thật đ� từng l�e l�n trong tri� trước kia. Để tiến về mục ti�u cuối c�ng, ti�u diệt v� minh v� �i dục, c� thể chậm m� cũng c� thể nhanh, chuyện n�y c� thể xảy ra dễ d�ng hay cũng c� thể l� kết quả của một cuộc đấu tranh gian khổ. Tuy nhi�n phải mất bao l�u, với phương tiện như thế n�o m� người đ� c� thể tiến l�n, một vi�c chắc chắn l�: một vị đệ tử như vậy đ� từng thấy qua sự s�ng ch�i của bốn Th�nh đế thi` kh�ng bao giờ lui bước trở lại, kh�ng bao giờ c� thể mất đi bản chất của vị Th�nh, v� sẽ c� căn cơ để đạt tới quả vị cuối c�ng của tầng Th�nh A La H�n trong tối đa l� bảy đời sống. |
The reason why the penetration of the Four Noble Truths can confer this immutable nobility of spirit is implied by the four tasks the noble truths impose on us. By taking these tasks as our challenge in life � our challenge as followers of the Enlightened One � from whatever station of development we find ourselves beginning at, we can gradually advance toward the infallible penetration of the noble ones.
|
Ly' do vi` sao sự thẩm thấu bốn ph�p Th�nh Đế chuẩn nhận t�nh chất cao sang bất biến la` do bốn phần việc m� c�c Th�nh Đế đ� �p đặt v�o ch�ng ta. Bằng c�ch n�i những phần nhiệm đ� như sự thử th�ch trong đời sống của ch�ng ta -- sự thử th�ch của những người đệ tử của Đấng Gi�c Ngộ -- từ một điểm n�o của tiến tri`nh tu tập ch�ng ta ti`m thấy ch�nh mi`nh tại điểm bắt đầu, ch�ng ta c� thể dần dần tiến đến sự th�m nhập quả vị Th�nh kh�ng thể sai lầm |
The first noble truth, the truth of suffering, is to be fully understood: the task it assigns us is that of full understanding. A hallmark of the noble ones is that they do not flow along thoughtlessly with the stream of life, but endeavor to comprehend existence from within, as honestly and thoroughly as possible. For us, too, it is necessary to reflect upon the nature of our life. We must attempt to fathom the deep significance of an existence bounded on one side by birth and on the other by death, and subject in between to all the types of suffering detailed by the Buddha in his discourses.
|
Ch�n đế th�m diệu thứ nhất, ch�n đế th�m diệu về sự khổ, (Dukkha-ariya-sacca, Khổ th�nh đế) được hiểu một c�ch tường tận: nhiệm vụ của ch�ng ta l� phải hiểu biết trọn vẹn. Một đặc điểm của vị th�nh l� Ng�i kh�ng tr�i theo d�ng đời một c�ch thiếu suy tưởng, nhưng cố gắng nỗ lực lĩnh hội sự tồn tại từ b�n trong, như l� ch�n thật v� thấu triệt. Ch�ng ta cũng vậy, n� thi` cần thiết cho đời sống tự nhi�n của ch�ng ta. Ch�ng ta phải cố gắng ti`m hiểu s�u y' nghĩa của sự sống tồn tại, sự hiện hữu của một b�n l� sự sanh v� b�n kia l� tử, v� vấn đề nằm trong tất cả mọi đau khổ m� chi tiết được giảng qua b�i thuyết giảng của Đức Phật |
The second noble truth, of the origin or cause of suffering, implies the task of abandonment. A noble one is such because he has initiated the process of eliminating the defilements at the root of suffering, and we too, if we aspire to reach the plane of the noble ones, must be prepared to withstand the seductive lure of the defilements. While the eradication of craving can come only with the supramundane realizations, even in the mundane course of our daily life we can learn to restrain the coarser manifestation of defilements, and by keen self-observation can gradually loosen their grip upon our hearts.
|
Ch�n đế th�m diệu thứ hai, đ�y l� ch�n đế th�m diệu về nguồn gốc hay nguy�n nh�n của Đau Khổ (dukkha-samudaya-ariyasacca, Tập khổ th�nh đế) �m chỉ nhiệm vụ phải diệt trừ. Một vị th�nh l� như vậy bởi v� Ng�i đ� được khai t�m qu� tri`nh tiến triển của sự diệt trừ những � nhiễm tại gốc rễ của sự khổ đau, v� ch�ng ta cũng thế, nếu ch�ng ta mong muốn đạt tới quả vị của một vị th�nh, ch�ng ta phải chuẩn bị cưỡng lại mồi quyến rũ của �i dục. Trong khi đ� sự diệt trừ �i dục c� thể chỉ đạt được với sự thực h�nh xuy�n qua trong đời sống của ch�ng ta, mặc d� trong qu� tri`nh diễn biến của đời sống trần tục ch�ng ta c� thể học hỏi v� bởi sự kiểm so�t ch�nh mi`nh c� thể dần dần mất đi sự ham muốn �i dục. |
The third noble truth, the cessation of suffering, implies the task of realization. Although Nibbana, the extinction of suffering, can only be personally realized by the noble ones, the confidence we place in the Dhamma as our guideline to life shows us what we should select as our final aspiration, as our ultimate ground of value. Once we have grasped the fact that all conditioned things in the world, being impermanent and insubstantial, can never give us total satisfaction, we can then lift our aim to the unconditioned element, Nibbana the Deathless, and make that aspiration the pole around which we order our everyday choices and concerns.
|
Ch�n đế th�m diệu thứ ba, sự diệt khổ (dukkha-nirodha-ariyasacca, Diệt Khổ th�nh đế), �m chỉ nhiệm vụ của sự nhận biết. Mặc d� Niết b�n, sự tận diệt đau khổ, chỉ c� thể một vị Th�nh nh�n nhận thức r� , với lo`ng tin ch�ng ta đặt để nơi đạo ph�p như đường lối chỉ đạo cho đời sống chỉ dẫn ch�ng ta c�i gi` ch�ng ta phải chọn lựa như l� nguyện vọng cuối c�ng của ch�ng ta, như l� căn bản gi� trị tối cần thiết sau c�ng của ch�ng ta. Một khi ch�ng ta đ� hiểu được rằng tất cả mọi vật trong thế giới, trở th�nh kh�ng vĩnh cửu v� mong manh, kh�ng bao giờ c� thể cho ch�ng ta một sự h�i lo`ng toại nguyện ho�n to�n , ch�ng ta c� thể sau đ� n�ng mục ti�u của ch�ng ta tới yếu tố tuyệt đối, Niết B�n Bất Tử, v� l�m sự ao ướt đ� trở th�nh trung t�m điểm c�i m� ch�ng ta h�ng ng�y chọn lọc v� quan t�m. |
Finally, the fourth noble truth, the Noble Eightfold Path, assigns us the task of development. The noble ones have reached their status by developing the eightfold path, and while only the noble ones are assured of never deviating from the path, the Buddha's teaching gives us the meticulous instructions that we need to tread the path culminating in the plane of the noble ones. This is the path that gives birth to vision, that gives birth to knowledge, that leads to higher comprehension, enlightenment and Nibbana, the crowning attainment of nobility. |
Cuối c�ng, ch�n đế th�m diệu thứ tư, con đường dẫn đến sự Diệt Khổ (dukkha-nirodha-gamini-patipada-ariya-sacca - Đạo diệt khổ th�nh đế) l� Th�nh đạo t�m ng�nh (ch�nh tri kiến, Ch�nh tư duy, Ch�nh ngữ, Ch�nh nghiệp, Ch�nh mạng, Ch�nh tinh Tấn, Ch�nh niệm, Ch�nh định) ấn định cho ch�ng ta phần việc dẫn tới sự gi�c ngộ. Một vị th�nh nh�n đ� đạt tới ti`nh trạng vị th�nh l� do h�nh tri` Th�nh đạo t�m ng�nh (b�t ch�nh đạo), v� trong khi đ� l� một vị th�nh nh�n thi` chắc chắn kh�ng bao giờ trệch hướng khỏi con đường đạo, Lời dậy của Đức Phật cho ch�ng ta sự chỉ dẫn r� r�ng tỉ mỉ rằng ch�ng ta cần bước đi con đường đạo l�n đến tột bậc trong mặt bằng của vị th�nh. Đ�y l� con đường đưa tới c�i nhi`n, đưa tới nhận thức, dẫn tới sự nhận thức cao hơn, gi�c ngộ v� Niết b�n, ho�n thiện, chu to�n đạt được của t�nh cao thượng. |
Chủ bi�n v� điều h�nh: TT Th�ch Gi�c Đẳng. Những đ�ng g�p dịch thuật xin gửi về TT Th�ch Gi�c Đẳng tại giacdang@phapluan.com |
Cập nhập ng�y: Thứ S�u 08-11-2006 Kỹ thuật tr�nh b�y: Minh Hạnh & Thiện Ph�p |
| |
___________
Ghi chú:
(9) ^^^^^
--- o0o ---
Cập nhật ng�y: 01-31-2006