圓 通 ; 1080-1151
Thiền sư Việt Nam, thuộc thiền phái Tì-ni-đa Lưu-chi đời thứ 18. Sư đắc pháp nơi Thiền sư Viên Học và sau đó truyền lại cho đệ tử ưu tú là Y Sơn. Sư được phong danh hiệu Quốc sư.
Sư tên tục là Nguyễn Nguyên Ức, quê làng Cổ Hiền, sau dời về kinh đô Thăng Long lập nghiệp. Cha sư làm quan đến chức Tả hữu nhai tăng lục dưới triều Lí. Sư bẩm chất thông minh, xuất gia lúc còn nhỏ, thụ giáo với Thiền sư Viên Học ở chùa Quốc An. Nơi đây, Sư được truyền tâm ấn.
Sư được hai vị vua Lí là Nhân Tông và Thần Tông hết sức kính trọng, ban cho nhiều danh chức. Nổi danh nhất là lời dạy của Sư cho vua Lí Thần Tông về việc an dân trị nước, được lưu lại trong Thiền uyển tập anh.
Cuối đời, Sư về làng Cổ Hiền, tỉnh Nam Ðịnh lập chùa Quốc Ân trụ trì. Ngày 21 tháng 4 năm Tân Mùi, niên hiệu Ðại Ðịnh, Sư họp chúng từ biệt rồi viên tịch, thọ 72 tuổi.
Sư có đề lại các tác phẩm: 1. Chư Phật tích duyên sự; 2. Hồng chung văn bi kí; 3. Tăng-già tạp lục; 4. Viên Thông tập, gồm hơn 1000 bài thơ.