馬 鳴 ; S: aśvaghoṣa;
Nhà thơ và luận sư Ðại thừa người Ấn Ðộ, sống giữa thế kỉ 1 và 2, được xem là một trong những luận sư quan trọng nhất của Phật giáo. Tác phẩm quan trọng nhất của Mã Minh là bộ Hi khúc Xá-lị tử, Phật sở hạnh tán, một tác phẩm diễn tả cuộc đời đức Phật, bộ Tôn-già-lợi Nan-đà. Sư cũng đươc xem là tác giả của bộ Ðại thừa khởi tín luận.
Ðầu tiên, Mã Minh theo đạo Bà-la-môn và được một vị tăng tên là Bà-lật-thấp-bà (s: pārśva) đưa vào đạo Phật. Các tác phẩm của Sư đọc rất dễ hiểu và có nhiều ẩn dụ. Thí dụ như chuyện Tôn-già-lợi Nan-đà »chàng trai tuấn tú Nan-đà« người tuy đã vào chùa đi tu nhưng vẫn còn thương yêu người vợ. Chỉ sau nhiều lần giảng dạy của Phật, chàng mới hết nghiệp yêu thương và sống viễn li. Mã Minh được xem là một trong bốn vị minh triết Phật giáo, được xếp vào »bốn mặt trời chiếu rọi thế giới«. Ba vị kia là Thánh Thiên, Long Thụ và Cưu-ma-la-đa (s: kumāralāta), một Ðại sư của Kinh lượng bộ.
Các tác phẩm được liệt kê dưới tên Mã Minh: 1. Ðại thừa khởi tín luận (mahāyānaśraddhotpāda-śāstra); 2. Phật sở hạnh tán (buddhacarita-kāvya); 3. Ðại tông địa huyền văn bản luận (mahāyānabhūmiguhyavācāmūla-śāstra); 4. Ðại trang nghiêm kinh luận (mahālaṅkāra-sūtra-śāstra); 5. Ni-kiền tử vấn vô ngã nghĩa kinh; 6. Thập bất thiện nghiệp đạo kinh (daśaduṣṭakarmamārga-sūtra); 7. Sự sư pháp ngũ thập tụng; 8. Lục đạo luân hồi kinh; 9. Hi khúc Xá-lị tử (śāriputraprakaraṇa); 10. Tôn-già-lợi Nan-đà (saudarananda-kāvya).