了 觀 ; 1667-1742
Thiền sư Việt Nam, thuộc tông Lâm Tế đời thứ 35. Sư nối pháp Thiền sư Tử Dung Minh Hoằng, góp công rất nhiều cho việc truyền bá dòng Thiền này tại miền Trung và Nam.
Sư tên Lê Thiệt Diệu, quê huyện Ðồng Xuân tỉnh Phú Yên (Sông Cầu). Lúc sáu tuổi Sư mồ côi mẹ, cha đem đến chùa Hội Tôn học với Hồ Thượng Tế Viên. Bảy năm sau Sư ra Thuận Hóa (Huế) học với Giác Phong Lão Tổ ở chùa Báo Quốc.
Năm 1702, Sư đến Hòa thượng Tử Dung tham thiền. Hồ thượng dạy Sư tham câu »Muôn pháp về một, một về chỗ nào?« ( 萬 法 歸 一 一 歸 何 處; Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ). Sau bảy tám năm tham cứu chưa lĩnh hội, Sư ngầm hổ thẹn. Một ngày nọ, nhân lúc đọc Truyền đăng lục có câu »Chỉ vật truyền tâm mà người chẳng biết« (Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ), Sư hoát nhiên tỉnh ngộ và trở lại xin gặp Hòa thượng Tử Dung trình sở đắc. Sau khi được Ấn chứng, Sư hay vào ra Huế – Phú Yên giáo hóa. Năm 1733, 1734, 1735 Sư dự bốn lễ Ðại giới đàn tại Huế. Năm 1740, Sư về am ở núi Thiên Thai, dựng chùa Thuyền Tôn.
Mùa xuân 1742, Sư lại dự Ðại giới đàn ở chùa Viên Thông. Ðến mùa thu, Sư gọi đệ tử báo »Nhân duyên ta đã hết, ta sắp đi đây.« Cuối tháng hai năm 1743, Sư viết bài kệ:
七十餘年世界中。空空色色亦融通
今朝願滿還家裏。何必奔縵問祖宗
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lí
Hà tất bôn man vấn tổ tông.
*Hơn bảy mươi năm ở cõi này,
Không không sắc sắc thảy dung thông.
Hôm nay nguyện mãn về quê cũ.
Nào phải bôn ba hỏi Tổ tông.
Ðến ngày 22 buổi sáng sau khi dùng trà, Sư hỏi giờ gì, đồ đệ đáp »giờ Mùi.« Sư liền an nhiên thị tịch. Vua sắc ban bia kí và tứ hiệu Ðạo Hạnh, thụy Chính Giác Viên Ngộ Hòa Thượng.
Sư là Tổ khai sơn chùa Thiên Thai Thuyền Tôn tại Huế, sau chùa còn tháp thờ Sư. Nhánh Thiền Lâm Tế tại miền Nam và Trung sau này được gọi theo tên Sư là Liễu Quán.