Trở Về   ]           [ Tác giả
Đỗ Đình Tuân 
 
THƠ HUYỀN QUANG THIỀN SƯ
(Đỗ Đình Tuân lấy nguồn từ "Trang thơ Huyền Quang thiền sư trên Thi Viện.nét)
1. Đề Động Hiên đàn việt giả sơn 14. Ngọ thuỵ
2. Đề Đạm Thuỷ tự 15. Nhân sự đề Cứu Lan tự 
3. Ai phù lỗ 16. Phiếm chu
4. Ðịa lô tức sự  17. Quá Vạn Kiếp 
5. Cúc hoa kỳ nhất  18. Sơn vũ
6. Cúc hoa kỳ nhị 19. Tặng sĩ đồ tử đệ
7. Cúc hoa kỳ tam 20. Tảo thu
8. Cúc hoa kỳ tứ 21. Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề
9. Cúc hoa kỳ ngũ 22. Thạch thất
10. Cúc hoa kỳ lục 23. Trú miên
11. Chu trung 24. Xuân nhật tức sự
12. Diên Hựu tự  25. Yên Tử sơn am cư
13. Mai hoa
Bài 1

題洞軒檀越假山
Đề Động Hiên đàn việt giả sơn
花木寅緣種作山,
Hoa mộc di duyên chủng tác sơn, 
籠煙罩月落花寒。
Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn. 
從茲念慮都無俗, 
Tùng tư niệm lự đô vô tục,
贏得清風一枕安。
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an
                            玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Đề núi non bộ của thí chủ ở Động Hiên
Trồng hoa và cây quấn quýt làm thành núi non bộ, 
Khói toả trăng lồng, hoa rơi lạnh lẽo. 
Từ nay những mối suy nghĩ không còn vương tục luỵ, 
Giành được giấc ngủ êm đềm trước luồng gió trong mát. 

Dịch thơ
Quấn quýt cây hoa tạo núi chơi
Trăng lồng khói tụ lạnh hoa rơi
Từ nay tâm tưởng không vương tục
Giấc ngủ thêm say trước gió trời.
                 Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 2

題潢水寺
Đề Đạm Thuỷ tự
潢水亭邊野草多,
Đạm Thuỷ đình biên dã thảo đa,
空山雨霽夕陽斜。 
Không sơn vũ tễ tịch dương tà.
因過輦路投禪室,
Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất,
擁梵敲鐘揀落花。
Ủng phạm xao chung giản lạc hoa.
                            玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Đề chùa Đạm Thuỷ
Bên đình Đạm Thuỷ nhiều cỏ nội, 
Núi quang, mưa tạnh, bóng chiều chênh chếch. 
Nhân qua con đường vua đi mà vào am thiền, 
Giúp nhà chùa thỉnh chuông và nhặt hoa rơi. 

Dịch thơ
Đạm Thủy bên đình cỏ biếc xa
Núi quang mưa tạnh bóng dương tà
Đường vua nhân ghé vào thăm Phật
Giúp Phật khua chuông nhặt cánh  hoa.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 3

哀俘虜
Ai phù lỗ
刳血書成欲寄音,
Khoá huyết thư thành dục ký âm,
孤飛寒雁塞雲深。
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm. 
幾家愁對今霄月,
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt, 
兩處茫然一種心。
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
                              玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Thương tên giặc bị bắt
Chích máu viết thư muốn gửi lời, 
Cánh nhạn lạnh lùng bay xuyên vào đám mây ngoài quan ải. 
Bao nhiêu nhà buồn ngắm bóng trăng đêm nay? 
Đôi nơi xa cách nhưng tấm lòng nhớ thương vẫn chỉ là một. 

Dịch thơ
Chích máu viết thư muốn gửi lời
Lạnh lùng lẻ nhạn ải bay khơi
Bao nhà buồn ngắm trăng nay sáng
Một mối sầu thương mấy cách vời.
                        Đỗ Đình Tuân dịch
 

Bài 4

地爐即事
Ðịa lô tức sự
煨餘榾柮絕焚香,
Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương, 
口答山童問短章。 
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương. 
手把吹商和采蘀, 
Thủ bả xuy thương hoà thái thác, 
徒教人笑老僧忙。
Ðồ giao nhân tiếu lão tăng mang.

Dịch nghĩa
Trước bếp lò tức cảnh
Củi đã tàn, cũng chẳng thấp hương, 
Miệng trả lời chú bé hỏi về những chương sách ngắn. 
Tay cầm ống thổi, tay nhặt mo nang, 
Luống để người ta cười vị sư già này bận bịu

Dịch thơ
Lửa tàn cũng chẳng thắp hương
Đáp lời trẻ núi hỏi chương sách gầy
Mo nang ống thổi cầm tay
Để người đàm tiếu sư hay ôm đồm.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 5

菊花其一
Cúc hoa kỳ nhất
松聲蔣詡先生徑,
Tùng thanh Tưởng Hủ (1) tiên sinh kính,
梅景西湖處士家。
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ (2) gia. 
義氣不同難苟合,
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp, 
故圓隨處吐黃花。
Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa.
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1. Nguyễn Khanh, người đất Đỗ Lăng đời Hán, làm Thứ sử Duệ Châu thời Ai Đế. Ông thích trúc và trồng trúc trong vườn.
2. Có thể là Lâm Bô, người đời Tốn

Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 1
Tiếng thông reo đầu ngõ ông Tưởng Hủ 
Cảnh hoa mai ở nhà xử sĩ Tây Hồ. 
Không cùng nghĩa khí, khó lòng hoà hợp tạm bợ được. 
Vườn cũ nơi nơi đã nở hoa vàng. 

Dịch thơ
Đầu nhà Tưởng Hủ tiếng thông vang
Xử sĩ Tây Hồ mai cảnh sang
Nghĩa khí không cùng khôn gượng hợp
Vườn xưa chốn chốn cúc hoa vàng.
                            Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 6

菊花其二
Cúc hoa kỳ nhị
大江無夢浣枯腸, 
Đại giang vô mộng hoán khô tràng,
百詠梅花讓好粧。 
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang.
老去愁秋吟未穩, 
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn,
詩瓢實為菊花忙。
Thi biều thực vị cúc hoa mang.
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 2
Không mơ lấy nước sông lớn rửa tấc lòng khô héo, 
Hoa mai từng được trăm bài thơ vịnh kia phải nhường vẻ đẹp 
Già rồi lại buồn vì thu, chưa làm thơ được, 
Nhưng túi thơ bầu rượu thật vì hoa cúc mà bận rộn.

Dịch thơ
Không mơ sông lớn rửa lòng khô
Vẻ đẹp hoa mai phải nhượng cho
Già đến buồn thu chưa vịnh được
Rượu bầu thơ túi  bận vì thơ.
                     Đỗ Đình Tuân dịch
 

Bài 7

菊花其三
Cúc hoa kỳ tam
忘身忘世已都忘,
Vong thân, vong thế, dĩ đô vong, 
坐久蕭然一榻涼。
Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương. 
歲晚山中無歷日,
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,
菊花開處即重陽。
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương (1)
.                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1.Tức ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch. Theo thuyết âm dương đời cổ, thì số 9 thuộc về dương. Hôm ấy tháng và ngày đều nhằm số 9, nên gọi là "tiết trùng dương".

Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 3
Quên mình, quên đời, đã quên tất cả, 
Ngồi lâu trong hiu hắt, mát lạnh cả giường. 
Cuối năm ở trong núi không có lịch, 
Thấy cúc nở biết rằng đã tiết trùng dương.

Dịch thơ
Lặng trên giường mát ta ngồi
Quên mình, quên hết sự đời bấy nay
Cuối năm ngày tháng nào hay
Nhìn hoa cúc nở  biết ngày trùng dương.
                         Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 8

菊花其四
Cúc hoa kỳ tứ
年年和露向秋開,
Niên niên hoà lộ hướng thu khai, 
月淡風光愜寸懷。
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài. 
堪笑不明花妙處,
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
滿頭隨到插歸來。
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai.
                               玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 4
Hàng năm hoa nở vào thu cùng với sương móc. 
Trăng thanh trời quang đãng, thỏa thích tấc lòng 
Ðáng cười ai không rõ sự huyền diệu của hoa, 
Bất cứ tới đâu (thấy hoa) cắm đầy đầu mang về.

Dịch thơ
Sương móc vào thu hoa nở mau
Trăng thanh gió nhẹ thỏa lòng nhau
Cười ai không rõ hoa huyền diệu
Cứ ngắt hoa đem dắt kín đầu.
               Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 9

菊花其五
Cúc hoa kỳ ngũ
花在中庭人在樓,
Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
焚香獨坐似忘憂。
Phần hương độc toạ tự vong ưu.
主人與物渾無競,
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
花向群方出一頭。
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
                               玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 5
Hoa ở dưới sân, người trên lầu, 
Một mình thắp hương ngồi tự nhiên quên hết phiền muộn. 
Người với hoa hồn nhiên không tranh cạnh, 
Trong các loài hoa thì cúc trội hơn một bậc.

Dịch thơ
Hoa ở dưới sân người ở lầu
Thắp hương độc tọa sạch lo âu
Hồn nhiên hoa chẳng ganh người vậy
Trong các loài hoa cúc đứng đầu.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 10

菊花其六
Cúc hoa kỳ lục
春來黃白各芳菲,
Xuân lai hoàng bạch các phương phi, 
愛艷憐香亦似時。
Ái diễm liên hương diệc tự thì. 
遍界繁華全墜地,
Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa,
後彫顏色屬東籬。
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly (1)
Ghi chú
1. Thơ Đào Tiềm: Thái cúc đông ly hạ (Hái hoa cúc ở giậu phía đông). Đào Tiềm là người rất thích trồng cúc.

Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 6
Xuân đến hoa vàng hoa trắng đều ngát thơm, 
Đúng thì, vẻ đẹp đáng yêu, hương thơm đáng chuộng đều giống nhau. 
Nhưng khi các loài hoa tươi tốt khắp nơi đều đã tàn rụng, 
Thì nhan sắc phai nhạt sau cùng là bông hoa ở giậu phía đông.

Dịch thơ
Xuân đến trắng vàng đều ngát hương
Đang thì hương sắc thảy tương đương
Nhưng khi loài khác mau tàn rụng
Phai nhạt sau cùng hoa giậu đông.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 11

舟中
Chu trung
一葉扁舟湖海客,
Nhất diệp biển chu hồ hải khách,
撐出葦行風搣搣。
Xanh xuất vi hành phong thích thích.
微茫四顧晚潮生,
Vi mang tứ cố vãn triều sinh, 
江水連天一鷗白。
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Trong thuyền
Một lá thuyền con, một khách hải hồ, 
Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc. 
Bốn bề mịt mù, con nước buổi chiều đương lên, 
Một chim âu trắng giữa khoảng nước trời liền nhau.

Dịch thơ
Một lá thuyền con khách hải hồ
Rặng lau chèo khỏi gió vi vu
Bốn bề mù mịt triều đang dậy
Trời nước liền nhau âu trắng đua.
                 Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 12

延祐寺
Diên Hựu tự (1)
上方秋夜一鐘闌,
Thượng phương du dạ nhất chung lan, 
月色如波楓樹丹。
 Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.
鴟吻倒眠方鏡冷,
Si vẫn (2) đảo miên phương kính lãnh, 
塔光雙峙玉尖寒。
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn. 
萬緣不擾城遮俗,
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục, 
半點無憂眼放寬。
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan. 
參透是非平等相,
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
魔宮佛國好生觀。
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan. 
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1Diên Hựu: tức chùa Một Cột, được vua Lý Thái Tông cho dựng năm Kỷ Dậu (1049), nay vẫn còn ở Hà Nội sau nhiều lần trùng tu.
2 Còn gọi là "si vĩ", là hình những con chim, cú, hoặc rồng được khắc hoặc đắp nổi trên nóc các đình, chùa. Trên nóc cùa Một Cột ngày nay có hình rồng..

Dịch nghĩa 
Chùa Diên Hựu 
Đêm thu, trên chùa một tiếng chuông đã tàn, 
Ánh trăng như sóng, cây phong lá đỏ. 
Bóng "xi vẫn" nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá, 
Hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt. 
Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục, 
Không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng. 
Hiểu thấu ý nghĩa của thuyết phải trái đều như nhau, 
Thì xem cung ma có khác gì nước Phật! 

Dịch thơ
Đêm thu chùa vắng chuông tàn
Cây phong lá đỏ trăng tràn sóng rơi
Đáy hồ « Xi vẫn » nằm ngơi
Tháp đôi như ngón tay người lạnh băng
Không lo tầm mắt mênh mang
Không duyên là bức thành ngăn tục niềm
Tỏ tường lý lẽ diệu huyền
Cung ma, nước Phật đôi bên khác gì.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 13

梅花
Mai hoa
欲向蒼蒼問所從, 
Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
凜然孤峙雪山中。
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung. 
折來不為遮青眼,
Chiết lai bất vị già thanh nhãn,
願借春思慰病翁。
Nguyện tá xuân tư uỷ bệnh ông.
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Hoa mai
Muốn ngẩng nhìn trời xanh hỏi hoa mai từ đâu tới, 
Lẫm liệt đứng sừng sững một mình trong núi tuyết. 
Bẻ về không phải để che mắt những người tinh đời, 
Chỉ muốn mượn tứ xuân an ủi ông già ốm yếu.

Dịch thơ
Muốn hỏi từ đâu mai tới đây
Một mình giữa tuyết đẹp xinh thay
Bẻ về không dấu người tinh mắt
Mượn tứ xuân thăm lão ốm này.
                Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 14

午睡
Ngọ thuỵ
雨過溪山淨, 
Vũ quá khê sơn tịnh,
楓林一夢涼。
Phong lâm nhất mộng lương. 
反光塵世介,
Phản quang trần thế giới, 
開眼醉茫茫。
Khai nhãn tuý mang mang.
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Giấc ngủ trưa
Tạnh mưa khe trong núi nước trong 
Rừng phong mát mẽ sau giấc ngủ say (mộng). 
Nhìn lại cõi trần này. 
Khi bừng mắt tỉnh dậy thấy niềm say man mác. 

Dịch thơ
Sau mưa khe núi sạch
Rừng phủ giấc mộng vàng
Ngoái nhìn cõi trần thế
Mắt mở lòng mang mang.
                Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 15

因事題究蘭寺
Nhân sự đề Cứu Lan tự
德薄常慚繼祖燈,
Đức bạc thường tàm kế tổ đăng, 
空教寒拾起冤憎。
Không giao Hàn, Thập (1) khởi oan tăng. 
爭如逐伴歸山去,
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
疊嶂重山萬萬層。
Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.
                       玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1.Hàn tức Hàn Sơn, Thập tức Thập Đắc, hai vị sư ở thời Trinh Quán nhà Đường. Theo "Truyện cao tăng" thì sư Phong Can ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai đi vân du gặp Lư Khâu Dận đi nhậm chức ở Thai Châu, hỏi ở Thai Châu có vị sư nào đạo đức cao siêu không? Sư Phong Can trả lời: "có Hàn Sơn Văn Thù và Thập Đắc Phổ Hiền, hình dáng như người nghèo lại như có chứng phong cuồng, hai vị này ở chùa giữ việc bếp nước". Khi Lưu Khâu Dận đến châu lỵ, vào chùa thấy hai vị sư này, liền sụp xuống lạy. Hai vị nói: "Phong Can rõ thật lắm mồm", rồi cùng nhau chạy trốn, Lư Khâu Dận tìm kiếm di vật, thấy được lời kệ của Thập Đắc và hai tập thơ của Hàn Sơn tử.

Dịch nghĩa
Nhân có việc đề ờ chùa Cứu Lan
Thường thẹn mình đức mỏng mà được nối ngọn đèn Tổ, 
Luống để cho Hàn Sơn và Thập Đắc phải sinh niềm oán giận. 
Chi bằng theo bạn về núi, 
Sống giữa muôn vạn tầng núi non trùng điệp.

Dịch thơ
Thẹn mình đức mỏng nối đèn sư
Thập Đắc, Hàn Sơn giận oán cho
Chi bằng theo bạn vào khe suối
Sống giữa muôn trùng núi nhấp nhô.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 16

泛舟
Phiếm chu
小艇乘風泛渺汒, 
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
山青水綠又秋光。
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang. 
數聲漁笛蘆花外, 
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
月落波心江滿霜。
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
                       玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Đi chơi thuyền
Chiếc thuyền con lướt gió lênh đênh trên dòng sông bát ngát, 
Non xanh, nước biếc, lại thêm ánh sáng mùa thu. 
Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm hoa lau, 
Trăng rơi đáy sóng, mặt sông đầy sương

Dịch thơ
Cưỡi thuyền lướt sóng mênh mông
Trời thu bát ngát một vùng nước mây
Thuyền ai vài tiếng sáo bay
Trăng rơi sóng nước sương đầy mặt sông
 Đỗ Đình Tuân dịch
 

Bài 17

過萬劫
Quá Vạn Kiếp
諒州人物水流東,
Lạng Châu nhân vật thuỷ lưu đông,
百歲光陰撚指中。
Bách tuế quang âm nhiển chỉ trung.
回首故山凝望處,
Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ, 
數行歸雁帖晴空
Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không.
                       玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Qua Vạn Kiếp
Nhân vật đất Lạng Châu như nước chảy về đông, 
Trăm năm bóng quang âm chỉ trong nháy mắt. 
Ngoảnh lại non xưa, nhìn đăm đắm, 
Vài hàng chim nhạn về Bắc in bóng giữa trời quang

Dịch thơ
Người Lạng châu nước về đông
Trăm năm ngắn ngủi trong vòng búng tay
Ngoái nhìn núi cũ xanh cây
Nhạn về như viết trong mây mấy hàng.
               Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 18

山宇
Sơn vũ
秋風午夜拂簷椏,
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha, 
山宇蕭然枕綠蘿。
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la. 
已矣成禪心一片, 
Dĩ hỹ thành thiền tâm nhất phiến,
蛩聲唧唧為誰多。
Cung thanh tức tức vị thuỳ đa.
                       玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Nhà trong núi
Đêm khuya gió thu sịch động bức rèm, 
Nhà núi đìu hiệu gối vào lùm dây leo xanh biếc. 
Thôi rồi, lòng ta đã hoàn toàn yên tĩnh, 
Tiếng dế vì ai vẫn rầu rĩ mãi.

Dịch thơ
Gió thu xao xác thổi hiên ngoài
Nhà dưới vòm cây không bóng ai 
Tấc dạ tu hành theo cõi Phật
Dế kêu rầu rĩ suốt đêm dài . 
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 19

贈仕途子弟
Tặng sĩ đồ tử đệ
富貴浮雲遲未到,
Phú quí phù vân trì vị đáo
光陰流水急相催。
Quang âm lưu thuỷ cấp tương thôi. 
何如小隱林泉下, 
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ,
一榻松風茶一杯。
Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Tặng những con em trên đường sĩ hoạn
Giàu sang như mây nổi, chậm chạp chưa đến, 
Quang âm như nước chảy, hối hả giục nhau qua. 
Sao bằng về ẩn nơi rừng suối, 
Một sập gió thông, một chén trà.

Dịch thơ
Mây nổi giầu sang chậm đến mà
Quang âm hối hả nước trôi qua
Sao bằng về ẩn nơi rừng suối
Một sập gió thông một chén trà.
                 Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 20

早秋
Tảo thu
夜氣分涼入畫屏,
Dạ khí phân lương nhập họa bình,
蕭蕭庭樹報秋聲。
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh. 
竹堂忘適香初燼, 
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn,
一一叢枝網月明。 
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
                     玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Buổi đầu thu
Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ, 
Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu. 
Dưới mái tranh quên bẵng hương vừa tắt, 
Mấy khóm cây cành giăng lưới vầng trăng sáng.

Dịch thơ
Đêm thu chia mát bức tranh rèm
Xào xạc cây sân lá rụng thềm
Dưới mái tranh quên hương mới tắt
Cành cây giăng lưới bóng trăng đêm.
                      Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 21

次寶慶寺壁間題
Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề
荒草殘煙野思多, 
Hoang thảo tàn yên dã tứ đa,
南樓北館夕陽斜。 
Nam lâu Bắc quán tịch dương tà.
春無主惜詩無料, 
Xuân vô chủ tích thi vô liệu,
愁絕東風幾樹花。
Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa.
                               玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Hoạ bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh
Cỏ hoang khói nhạt, tứ quê chan chứa, 
Lầu Nam quán Bắc dưới bóng chiều tà. 
Tiếc thay cảnh xuân không có chủ, thơ không có nguồn thơ, 
Mấy cây hoa buồn bã trước gió xuân.

Dịch thơ
Cỏ hoang khói nhạt tứ quê nhiều
Bắc quán nam lâu xế bóng chiều
Tiếc cảnh tiếc thơ không có chủ
Mấy nhành trước gió hoa buồn thiu.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 22

石室
Thạch thất
半間石室和雲住,
Bán gian thạch thất hoà vân trụ, 
一領毳衣經歲寒。 
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn.
僧在禪床經在案,
Tăng tại thiền sàng kinh tại án,
爐殘榾柮日三竿。
Lô tàn cốt đột nhật tam can.
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Nhà đá
Nửa gian nhà đá, ở lẫn cùng mây, 
Một tấm áo lông, trải hết mùa đông rét buốt. 
Sư ở trên giường thiền, kinh ở trên án, 
Lò tàn, củi lụi, mặt trời lên đã ba cây sào.

Dịch thơ
Nửa gian nhà đá ở cùng mây
Trải hết mùa đông tấm áo dầy
Sư tại giường thiền kinh tại án
Lò tàn trời mọc khoảng ba cây.
                Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 23

晝眠
Trú miên
祖父田園任自鋤,
Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ, 
千青盤屈繞吾盧。 
Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.
木犀窗外千鳩寂,
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch, 
一枕清風晝夢餘。
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư. 
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Ngủ ngày
Ruộng vườn của cha ông, mặc sức tự cày cấy, 
Ngàn cây xanh quanh co, vấn vít quanh nhà ta. 
Trên cây quế ngoài cửa sổ, ngàn con chim cưu vắng tiếng, 
Một chiếc gối trong gió mát, giấc mộng ban ngày chưa tàn.

Dịch thơ 
Vườn ruộng ông cha tự cấy cầy
Mầu xanh vấn vít quanh nhà vây
Cây ngoài cửa sổ chim cưu vắng
Gió mát say sưa giấc mộng ngày.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 24

春日即事
Xuân nhật tức sự
二八佳人刺繡持, 
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
紫荊花下轉黃鸝。
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
可憐無限傷春意,
Khả liên vô hạn thương xuân ý, 
盡在停針不語時。
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư

Dịch nghĩa
Tức cảnh ngày xuân
Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi, 
Dưới lùm hoa tử kính đang nở, líu lo tiếng chim oanh vàng. 
Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng, 
Cùng dồn lại ở một giây phút, đứng kim và im phắc. 

Dịch thơ
Giai nhân thêu gấm nhẹ nhàng
Tử kinh hoa nở oanh vàng líu lô
Thương xuân,  bao ý tình cô
Dồn vào khoảnh khắc lặng tờ ngừng kim.
                       Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 25

安子山庵居
Yên Tử sơn am cư
庵逼青霄冷,
Am bức thanh tiêu lãnh, 
門開雲上層。 
Môn khai vân thượng tằng.
已竿龍洞日, 
Dĩ can Long Động (1) nhật,
猶尺虎溪冰。 
Do xích Hổ Khê (2) băng.
抱拙無餘策, 
Bão chuyết vô dư sách,
扶衰有瘦藤。
Phù suy hữu sấu đằng.
竹林多宿鳥, 
Trúc lâm đa túc điểu,
過半伴閒僧。
Quá bán bạn nhàn tăng.
               玄光禪師
       Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1. Một cảnh đẹp trên núi Yên Tử, có chùa Long Ðộng, Huyền Quang tu ở đấy.
2. Tên một con suối ở vùng Yên Tử

Dịch nghĩa
Ở am núi Yên Tử
Cao sát trời xanh, am thiền mát lạnh, 
Cửa mở trên tầng mây. 
Trước Long Động mặt trời đã một cây sào, 
Dưới Hổ Khê băng còn dầy một thước. 
Giữ thói vụng về không có mưu chước gì, 
Đỡ tấm thân già yếu đã có chiếc gậy mây khẳng kheo. 
Rừng trúc nhiều chim đậu, 
Quá nửa làm bạn với nhà sư thanh nhàn.

Dịch thơ
Sát trời am thiền lạnh
Cửa mở giữa tầng mây
Long Động mặt trời mọc
Hổ Khê tuyết phủ dầy
Vụng về không kế sách
Đỡ già gậy một cây
Rừng trúc nhiều chim đậu 
Quá nửa bạn sư đây.
          Đỗ Đình Tuân dịch