Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [Home Page]

Một số nhận định về việc giáo dục 
và đào tạo Tăng Ni
Trần Tuấn Mẫn
I. Lời mở đầu
Bài này nêu một số nhận định về việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni, được trình bày bởi một cư sĩ Phật tử chứ không phải của một Tôn đức giáo phẩm. Do đó các ý kiến trong nội dung có thể thiếu phần trang trọng và sâu sắc. Tuy vậy, với tấm lòng thành luôn luôn muốn đóng góp vào công cuộc phát triển đạo Phật, người trình bày có may mắn ở trong ngành sư phạm đã hơn 30 năm, trong đó có gần 10 năm tham gia vào việc soạn chương trình, vào Ban Giám hiệu và Ban Giảng huấn của trường Cao cấp Phật học Việt Nam ; lại nữa, do cơ duyên gắn bó với nhà chùa từ thuở nhỏ theo truyền thống gia đình, có nhiều người thân thuộc xuất gia, người trình bày bài này nghĩ rằng có thể đóng góp một số ý kiến về việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni, và may ra được sự đóng góp, chỉ giáo của chư Tôn túc cũng như hàng Học giả.

Người trình bày sẽ đề cập đến truyền thống giáo dục và đào tạo Tăng Ni từ thời Ðức Phật và về sau, qua đó có minh họa tương đối kỹ hơn về việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni tại Việt Nam.

II. Một số nét khái quát về việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni.
Kinh Itivuttaka có ghi lời Phật dạy rằng có 3 hạng người xuất hiện ở đời đem lại hạnh phúc cho số đông, vì an lạc của Trời và Người, đó là đức Như Lai, chư vị A-la-hán và chư Tỳ-kheo hữu học. - đây, chúng ta chú ý rằng Ðức Phật trỏ đến vị trí quan trọng của chư Tỳ-kheo hữu học, tức là những vị còn cần phải tu học, cần phải được huấn luyện và đào tạo. Lại nữa, cụm từ quan trọng là "đem hạnh phúc cho số đông", tức là chức năng xã hội của người tu sĩ Phật giáo. Qua đó chúng ta thấy Ðức Phật đã khẳng định rằng chư Tăng Ni cần phải được học tập, rèn luyện để tự thăng tiến và giúp người khác thăng tiến đến mục đích giải thoát tối hậu.

Trong thời Ðức Phật, ngoài một số ít vị A-la-hán xin Ðức Phật vào rừng sâu, sống biệt lập để tu tập, chư vị đắc Thánh quả cũng như chưa đắc Thánh quả hầu hết đều trực tiếp hoặc gián tiếp (qua các trưởng lão) thọ nhận sự giáo dục của Ðức Phật. Khi giáo đoàn chỉ mới gồm 60 vị Tỳ-kheo đắc Thánh quả, Ðức Phật đã nhấn mạnh đến chức năng xã hội và chức năng giáo dục, đào tạo của chư vị mà dạy rằng chư vị hãy đi khắp nơi, vì hạnh phúc của số đông... Nhưng ý nghĩa giáo dục và đào tạo nổi bật từ khi giáo đoàn Tỳ-kheo gồm 1250 vị trú tại Tịnh xá Veluvana do vua Bimbisara (Tần-bà-sa-la) dâng cúng và sau khi lệ an cư kiết hạ được thiết lập. Cũng từ đó, khi nhiều trú xứ của Tỳ-kheo được thiết lập ở các vùng xa, vùng nông thôn (àvasa) hoặc thành thị (àrama), hoặc về sau các trú xứ được gọi bằng một số tên khác thường là do kiểu dáng kiến trúc như Lena, Vihàra, Addhaya, Pàsàda, Hammiya... thì bấy giờ người ta có thể xem là những cơ sở giáo dục nội trú theo nghĩa ngày nay. Cơ sở lớn và nổi tiếng nhất được xem như một Ðại học viện của Phật giáo là Nalanda ở Bắc Ấn Ðộ, vào thế kỷ thứ 2 do ngài Long Thọ (Nagarjuna) làm Viện trưởng. Về sau, Phật giáo bị suy vi tại Ấn Ðộ thì lại phát triển sang Tây Tạng, Miến Ðiện, Tích Lan, Trung Hoa, Việt Nam... và các cơ sở và hệ thống giáo dục Tăng Ni vẫn theo hình thức cũ, nhưng ở mức độ lớn nhỏ tùy theo từng địa phương, từng thời đại.

Tại Việt Nam, Luy Lâu được xem là một Trung tâm nghiên cứu và truyền bá đạo Phật đầu tiên lại khá đồ sộ nhưng đứng về mặt giáo dục và đào tạo Tăng Ni thì các ngôi chùa lại đóng vai trò cơ bản và quan trọng. Các ngôi chùa lần lượt được xây dựng, khởi từ vị khai sơn, vị trụ trì và một số ít Tăng chúng, sự giáo dục, truyền thọ hình thành trong từng chùa, biệt lập, đơn lẻ. Tuy thế, nhà chùa lại có thể được xem là những trường học đầu tiên của đất nước. Kể từ trước và suốt thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân lầm than cơ cực, bị áp bức đủ mọi mặt, chỉ riêng giới tu sĩ Phật giáo tương đối đFFF bị khổ ải vì sưu dịch do bấy giờ Phật giáo mới du nhập và phát triển ở Trung Quốc và giới tu sĩ ở đấy được kính trọng, có ảnh hưởng đến giới cai trị Bắc phương tại Giao Chỉ. Các vị sư Giao Chỉ được xem là những bậc trí thức vì ngoài kinh điển, chư vị còn học đủ môn ngoại điển của người Trung Hoa, từ đó một số chùa còn thu nhận con em của nhân dân trong xóm làng đến học.

Ðến khi đạo Phật hưng thịnh ở Việt Nam, các chùa chiền, các Thiền phái và các Tông phái phát triển, việc giáo dục, đào tạo Tăng Ni cũng được phát triển nhưng vẫn mang tính cục bộ, chưa có hệ thống rõ rệt.

Công cuộc giáo dục và đào tạo Tăng Ni có khởi sắc vào thời kỳ chấn hưng. Năm 1920 đến 1934, tại Nam kỳ, hòa thượng Từ Phong ở đạo tràng Giác Hải tại Chợ Lớn dạy các Tăng sĩ. Ngài Khánh Hòa mở lớp Phật học tại Bến Tre. Ngài Chí Thành cũng mở trường Phật học tại Bến Tre, đặc biệt có một trường Ni tại Bạc Liêu. Ngài Huệ Quang, ngài Khánh Anh cũng mở trường tại Trà Vinh, Long An. Phật học đường LưFFFng Xuyên mở lớp Tăng, lớp Ni riêng biệt. Tại Bắc kỳ bấy giờ có hai lớp Tiểu học cho Tăng và cho Ni ở Phúc Yên, Hải Hưng. Chùa Quán Sứ mở trường Trung học Phật học, chùa Sở ở Hà Ðông mở trường Ðại học. Giáo dục Phật giáo tại Bắc kỳ bấy giờ đã có cấp Tiểu học, Trung học và Ðại học ngoài các khóa học trong các kỳ An cư. Tại Trung kỳ, ta thấy có trường Trung đẳng Phật học tại Bình Ðịnh (1937), trường Tiểu học Phật học tại Phan Rang, Phật học đường gồm 2 cấp Tiểu và Trung học tại Ðà Nẵng. Tại Huế, chùa Trúc Lâm mở trường An Nam Phật học, sau đó là chùa Báo Quốc với chương trình học có hệ thống hơn gồm 6 năm Tiểu học, 3 năm Trung học. Cấp Ðại học cũng được mở và thu nhận được 10 Tăng sĩ. Ngoài ra, các chùa Vạn Phước, Tường Vân, Từ Ðàm đều có mở trường Phật học.

Từ thời chấn hưng Phật giáo, sự giáo dục và đào tạo Tăng Ni đã đi dần vào hệ thống. Chương trình 3 cấp Tiểu, Trung và Ðại ở các địa phương khác nhau cũng có nhiều nội dung giống nhau. Tuy vậy, số Tăng sinh mỗi trường lớp cũng chỉ từ vài ba chục đến một trăm ; lại nữa, hầu hết các trường lớp không mở được lâu dài, phần lớn là do thời cuộc, do tài chánh, nhân sự. Từ những năm 50, 60, các Phật học viện, tu viện được tổ chức tương đối qui củ và có chất lượng, tuy vậy số Tăng Ni được đào tạo cũng rất hạn chế. Ta có thể kể : Phật học viện Việt Nam, tức Phật học học viện Hải Ðức ở Nha Trang (1956), Phật học đường Phước Hòa ở Trà Vinh (1956), Tu viện Nguyên Thiều ở Bình Ðịnh (1956), Ni học viện Tăng-già ở Sài Gòn (1957), Ni học viện Từ Nghiêm ở Sài Gòn (1960) và tu viện Quảng Hương Già Lam ở Sài Gòn (1960). Sau đó, Phật học viện Pháp Hội, về sau chuyển sang chùa Xá Lợi, có một chương trình Ðại học Phật học khá hoàn bị và khi Ðại học Vạn Hạnh được thành lập năm 1968 tại Sài Gòn thì giáo dục Phật giáo đã có cấp học cao nhất với nhiều phân khoa của một Ðại học đúng nghĩa.

Công cuộc Giáo dục Tăng Ni đến đây đã có bước tiến dài, nội dung Giới, Ðịnh, Tuệ được giảng dạy cụ thể, đầy đủ với tổ chức chặt chẽ, phương pháp sư phạm đúng đắn và lực lượng giáo sư, giảng viên khá mạnh. Cái mới nữa là các Tăng Ni sinh còn được học nhiều môn ngoại điển, phù hợp với sự tiến triển của thời đại. Rõ ràng Ðại học Vạn Hạnh ngoài số đông sinh viên nam nữ Phật tử gồm nhiều ngàn người, số Tăng Ni sinh ở phân khoa Phật học khá đông và ở các khoa khác cũng không phải là ít. Tuy nhiên, một hệ thống giáo dục Phật giáo đúng nghĩa vẫn chưa được hình thành về phần giáo dục và đào tạo cơ bản, tức là chưa thường xuyên và chưa có hệ thống tổ chức đối với các trường Sơ cấp, Trung cấp, Cao đẳng...

III. Việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni hiện nay ở Việt Nam.
Từ sau ngày đất nước Thống Nhất, sau một thời gian khá dài vận động và chuẩn bị, đến năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, thống nhất 9 tổ chức và hệ phái Phật giáo. Lại phải mất vài năm để củng cố, ổn định tổ chức và sinh hoạt, Giáo hội đã hoạt động khá mạnh mẽ và từ đó đến nay, đã đạt được nhiều thành quả khả quan, nổi bật nhất là việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni. Trong 10 năm trở lại đây, hiện đã có 23 trường Cơ bản Phật học trên toàn quốc, 2 trường Cao cấp Phật học và 2 lớp Cao đẳng Phật học. Ðó là chưa kể các lớp Phật học riêng lẻ tại các chùa, các khóa đào tạo giảng sư của Ban Hoằng pháp và một số khóa chuyên ngành khác như y tế, từ thiện xã hội... Như vậy công cuộc giáo dục và đào tạo Tăng Ni được tiến hành khá đồng bộ trên khắp cả nước. Số Tăng Ni sinh tại mỗi trường từ 60 đến 100, thậm chí có 2, 3, hay 5 trăm Tăng Ni sinh ở nhiều trường Cơ bản. Trường Cao cấp Phật học đã đào tạo được ba khóa ở thành phố Hồ Chí Minh và hai khóa ở Hà Nội. Số Tăng Ni sinh tốt nghiệp Cao cấp Phật học (tương đương với Cử nhân) tính đến hết khóa hiện nay khoảng 500 người. Một số đang theo học các khóa Cao học, Tiến sĩ Phật học tại Ðài Loan, Nhật Bản, Sri Lanka và nhất là tại Ấn Ðộ (riêng tại Ấn Ðộ, số Tăng Ni nghiên cứu sinh hiện khoảng 30 người). Chương trình học của các lớp cùng cấp, cách tổ chức điều hành, sinh hoạt của các trường tương đối giống nhau. Một ưu điểm nữa là các trường đều có dạy nhiều môn ngoại điển, phù hợp với xã hội, thời đại như văn, triết, sử, sinh ngữ, sinh thái, quản trị, văn minh, xã hội học... Ðó là chưa kể các buổi ngoại khóa về một số vấn đề thời sự, khoa học, văn học...

Ngành Giáo dục Tăng Ni chỉ trong vòng 10 năm đã đạt được những thành tựu tốt đẹp, mở ra những triển vọng mới đầy khích lệ. Tuy vậy, trong giai đoạn đầu của phát triển, những khó khăn, tồn đọng không phải là ít.

Khó khăn tồn đọng lớn nhất của ngành Giáo dục Tăng Ni hiện nay cũng như các ngành khác là khó khăn về tổ chức, nhân sự và tài chánh. Ba mặt này có liên hệ mật thiết với nhau vì một mặt được phát triển, cải tạo thì các mặt kia cũng được phát triển, cải tạo.

Về tổ chức, hiện nay các trường Phật học hầu như chưa được lập về mọi sinh hoạt. Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương chưa nắm được việc thực hiện chương trình giảng dạy, đội ngũ giảng huấn và chưa thể hiện đầy đủ vai trò lãnh đạo, giúp đFFF đối với trường Phật học ngoài việc khích lệ và chuẩn y việc tổ chức. Mặt khác, việc báo từ các trường Phật học lên Ban Trị sự hay tiểu Ban Giáo dục Tăng Ni ở các Tỉnh Thành cũng quá sơ lược, hoặc bỏ qua luôn ; từ đó xảy ra việc tùy tiện thêm bớt các môn học ở các trường cùng cấp thường xảy ra, chất lượng giảng dạy và học tập giữa các trường cùng cấp cũng có nhiều chênh lệch, ngành giáo dục Trung ương Giáo hội và Ban Trị sự tỉnh thành thiếu các bộ phận hành chánh, thanh tra, soạn sách giáo khoa... Hàng chục năm qua, chưa có hội nghị, hội thảo về việc giáo dục Tăng Ni, chưa có tổ chức đào tạo hay bồi dưFFFng đội ngũ giảng huấn, hầu như các giảng viên Phật học đều chưa qua các lớp huấn luyện sư phạm.

Về nhân sự, các Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương và địa phương, Ban Giám hiệu, văn phòng, Ban Giảng huấn... tuy có đủ nhưng không chuyên ngành, các vị thường phải kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác trong Giáo hội. Một vị trong Ban Giáo dục Tăng Ni, trong Ban Giám hiệu thường kiêm nhiệm chức vụ ở một trong nhiều ban khác hay nhiều cơ sở khác. Như trên đã nói, khả năng chuyên môn trong lãnh đạo, tổ chức, hành chánh, giảng dạy còn hạn chế nên hiệu năng công tác chỉ có mức độ nhất định.

Về tài chánh, các Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương và địa phương không có quỹ để hoạt động. Các trường Phật học phải tự lo tài chánh bằng cách vận động các tổ chức hay cá nhân hảo tâm để có chi phí trong điều hành, sinh hoạt. Thiếu thốn tài chính là trở ngại lớn nhất, ảnh hưởng đến tổ chức, nhân sự. Thiếu cơ sở vật chất, thiếu trang thiết bị, thiếu khoản chi cho các sinh hoạt phục vụ giáo dục như hội thảo, ngoại khóa, tham quan... trong khi đó quỹ tại các trường rất ít và thiếu ổn định, tiền thù lao cho Ban Giảng huấn, nhân viên văn phòng chỉ có tính cách tượng trưng hoặc hầu như không có gì !

IV. Nhận định chung và sơ phác phương hướng phát triển việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni.

Lịch sử chứng tỏ thời Ðức Phật, Tăng già đã được ổn định và việc giáo dục đào tạo Tăng Ni đã có cơ sở vững vàng, nội dung, phương pháp, biện pháp giảng dạy của Ðức Phật và chư Thánh đệ tử của Ngài đến nay vẫn còn giá trị, đáng làm tiêu bảng cho phương hướng giáo dục Phật giáo ngày nay. Thế mà do cơ duyên thuận nghịch, việc đào tạo Tăng Ni về sau phải trải qua những thăng trầm, thậm chí trong một thời gian dài, có khi việc đào tạo Tăng Ni chỉ có tính cục bộ, một vị Thầy dạy cho một hoặc hai đệ tử, nội dung giáo dục lẻ tẻ, rời rạc có khi như tách biệt với cuộc sống bên ngoài và từ đó, có những lúc Phật giáo suy vi trầm trọng.

Dù những khó khăn, hạn chế nói trên, ngành giáo dục Tăng Ni tại Việt Nam vẫn phát triển mạnh. Sở dĩ như vậy là nhờ quyết tâm, nỗ lực của toàn thể Tăng Ni và Phật tử, do sự ủng hộ của nhiều cơ quan, tổ chức thân hữu trong và ngoài nước và do một số Tôn túc, chuyên gia có tài năng, đức độ và kinh nghiệm trong ngành giáo dục. Nhưng thành quả của công việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni sẽ lớn hơn nhiều nếu những trở ngại trên được giải quyết.

Sau đây là sơ phác một số điểm trong phương hướng phát triển ngành giáo dục và đào tạo Tăng Ni tại Việt Nam.

1. Cần vận động tài chánh đủ cho các sinh hoạt giáo dục và đào tạo : Trung ương Giáo hội cần kêu gọi sự hỗ trợ của các Ban, ngành, viện, cho giáo dục. Các trường tăng cường sự vận động tài chánh. Giáo hội cần có cơ sở kinh tài để chi phí cho giáo dục. Các Tăng Ni sinh trước khi vào trường cần vận động thầy Tổ, người thân, Phật tử đóng góp tài vật cho nhà Trường đều đặn để chia xẻ các chi phí với nhà Trường.

2. Tăng cường số lượng và chất lượng của đội ngũ giảng dạy, hành chánh, tổ chức ; tăng cường chương trình tu học, tu nghiệp và tham quan đến các cơ sở giáo dục Phật giáo ở nhiều nước bạn trên thế giới ; mở các cuộc hội thảo, hội nghị giáo dục tại địa phương, trong nước và có tính quốc tế ; mở rộng kế hoạch hợp tác, trao đổi văn hóa giáo dục các nước bạn.

3. Soạn thảo, cải biên và thống nhất chương trình học cho các cấp, từ Sơ cấp đến Ðại học (hiện nay chưa có chương trình Sơ cấp hay Tiểu học Phật giáo, các chùa đều phải tự lo đào tạo các chúng điệu, mức độ và nội dung đào tạo không đồng bộ, còn tùy theo hoàn cảnh của từng chùa).

4. Cập nhật hóa chương trình học cho phù hợp với sự phát triển của đất nước và thời đại ; cần chuyên môn hóa thành từng ban hay khoa để có sự chuyên sâu trong đào tạo ; ví dụ, có khoa dạy về nghi lễ, về công tác xã hội, về sư phạm, về hành chánh... Chương trình ngoại điển cần thay đổi cụ thể cho phù hợp với thời đại để Tăng Ni sinh khi ra trường có thể dễ dàng truyền bá Chánh pháp, tham gia công tác xã hội, xây dựng đất nước và góp phần xây dựng hòa bình, hạnh phúc cho thế giới.

5. Tiến hành việc đổi tên các trường Cao cấp Phật học thành Trường Ðại học Phật học với cách tổ chức, sinh hoạt đúng nghĩa của một Ðại học. (Hiện nay Thừa thiên Huế đang chuẩn bị xin mở một Ðại học Phật học, như vậy có thể trong thời gian tới, cùng với hai trường Cao cấp hiện nay, sẽ có ba trường Ðại học Phật học trên cả nước).

6. Và trên hết, cần giáo dục đạo đức cho Tăng Ni sinh. Những sa đọa đạo đức xã hội, nếp sống văn minh vật chất hiện nay có ảnh hưởng lớn đến giới tu sĩ. Trong Giới Ðịnh Tuệ, Giới được kể làm đầu và từ thời Ðức Phật, nội dung đào tạo Tăng Ni, trước hết là giới luật, là đạo đức của người xuất gia. Kinh nghiệm cho thấy giáo dục đạo đức khó hơn giáo dục kiến thức kỹ năng và phần lớn các tu sĩ trở lại với đời sống tại gia đều là những người được đào luyện khá tốt về kiến thức và kỹ năng.

V. Kết luận.
Xây dựng một nền giáo dục và đào tạo Tăng Ni vững mạnh là bổn phận của tất cả những ai lưu tâm đến sự phát triển của Phật giáo. Người tu sĩ Phật giáo hơn ai hết là những sứ giả của đức Như Lai, đem Chánh pháp đến cho đời, thực hiện thông điệp giải thoát của Ðức Phật. Người tu sĩ Phật giáo cần phải được giáo dục và đào tạo để xứng đáng với chức năng cao cả đó.

Ngành giáo dục Tăng Ni nước ta đang phát triển nhưng những khó khăn vẫn còn rất nhiều. Vì giáo dục là giáo dục con người và con người là con người đang sống với cộng đồng xã hội luôn luôn thay đổi, nên việc cải tiến nội dung giảng dạy, tổ chức, phương pháp và biện pháp giáo dục phải được thực hiện không ngừng.

Trần Tuấn Mẫn,
Tổng thư ký Học Viện Phật Giáo Việt Nam,
Chánh văn phòng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
Bài tham luận Hội thảo "Hướng Phát Triển Phật Giáo Việt Nam"-T LTV, Pháp, 8. 9. 1996


  [ Trở Về ]